Luật Nghiệp Báo

LỜI TỰA

Vào cuối thế kỷ 20 này, khoa học tiến bộ vượt bậc so với những thế kỷ trước.
Tuy nhiên những tin tức về sự xuất hiện của các đĩa bay (UFO) đã thách thức
loài người trước nền văn minh cực kỳ siêu việt của người từ vũ trụ đến.
Những nhà khoa học chân chính cảm thấy con người cần phải khiêm tốn hơn vì
còn quá nhiều điều mà chúng ta chưa biết, chân lý vũ trụ vẫn còn xa xôi, bí
ẩn. Những tiến bộ hôm nay đã cho con người hưởng thụ các tiện nghi của đời
sống, các lạc thú của trần gian. Tuy nhiên thêm vào đó có quá nhiều phim ảnh
đã gieo rắc tư tưởng hận thù bạo lực và dục vọng. Cái thiện và cái ác vẫn
đang giằng xé nhau trong nội tâm của con người. Các nhà đạo đức đại diện cho
các tôn giáo truyền thống vẫn ra sức kêu gọi con người vượt bỏ cái
ác để đi tìm sự t

Đôi lúc con người cảm thấy các thần linh đã vắng bóng vì dường như không còn
ai che chở cho điều thiện, cái ác vẫn tồn tại và lan rộng khắp trong cuộc
đời này. Nếu như thần linh đã bỏ mặc cho con người tự quyết định lấy số phận
của chính mình. Muốn tốt đẹp, họ hãy tìm về nẻo thiện, nếu không, họ phải
gánh lấy khổ đau.

Không ai đem cái thiện đến cho con người. Chính con người phải làm cho mình
trở nên thánh thiện. Con người sinh ra đều khát khao hạnh phúc và họ có
quyền hưởng hạnh phúc.

Đây là một tiêu đề quan trọng mà không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên hạnh
phúc là gì thì vẫn còn là một sự suy xét chưa chấm dứt. Có người cho hạnh
phúc là cơm ăn, áo mặc. Có người cho hạnh phúc là danh dự và địa vị. Có
người cho hạnh phúc là Tổ quốc hùng cường. Các nhà thần học cho hạnh phúc là
cuộc sống vĩnh hằng bên cạnh Thượng Đế ở cõi Thiên đàng.Các nhà đạo học Đông
Phương cho hạnh phúc là nội tâm thanh tịnh sau khi đã chấm dứt mọi sự ham
muốn, phiền não. Các nhà từ thiện quan niệm hạnh phúc chỉ thực sự hiện hữu
khi chúng ta quên mình phụng sự tất cả mọi người.

Nếu chúng ta đem câu hỏi hạnh phúc là gì để hỏi luật Nghiệp Báo, luật này sẽ
trả lời những gì chúng ta gây ra cho kẻ khác sẽ trở lại với chúng ta một
cách công bằng. Còn hạnh phúc là gì thì tùy theo quan điểm của mỗi người.

Mỗi người tùy theo tâm trạng, hoàn cảnh, kiến chấp của mình để chọn cho mình
một định nghĩa về hạnh phúc. Đối với người đói, bát cơm là hạnh phúc. Với
người hèn kém, sự quyền qúi là hạnh phúc.

Tuy nhiên rất ít người biết tìm hạnh phúc thanh cao. Đa số chỉ vùi đầu trong
danh vọng và vật chất. Con người đã tiêu diệt giành giật lẫn nhau. Máu tiếp
tục đổ. Máu đã đổ quá nhiều từ khi con người sống đời hoang dã. Máu vẫn còn
đổ dù cho con người đã bước sang đời sống văn minh hôm nay.

Nhà bác học Gamov trong truyện ngắn khoa học viễn tưởng "Hành tinh chết" đã
dự báo rằng nền văn minh đích thực mà con người sẽ đạt đến không phải nền
văn minh vật chất mà chắc chắn sẽ là nền văn minh tâm linh. Khi đó con người
có thể không mang hình hài bé bỏng tạm bợ mà chỉ có một thể tánh "hợp nhất
với vũ trụ, đạt được ý chí vạn năng và tự do không bờ bến"

Từ trước khi Đức Phật ra đời. Luật Nhân Quả Nghiệp Báo đã được nói đến tại
Ấn Độ trong các kinh điển Vệ Đà truyền thống. Đức Phật khẳng định lại tính
chất thật hữu của luật này và gạt bỏ mọi bàn tay của thần linh chi phối vào
đó. Không một thần linh nào thưởng thiện phạt ác. Chỉ có Luật Nhân Quả khách
quan âm thầm chi phối tất cả. Luật Nhân Quả là một chân lý, một nguyên lý
của vũ trụ.
Nếu Luật Nhân Quả được chấp nhận rộng rãi trên hành tinh này, đạo đức xã hội
sẽ chuyển biến mạnh mẽ, con người sẽ hạnh phúc hơn, niềm vui sẽ nhiều hơn.
Người tin hiểu Luật Nhân Quả Nghiệp Báo sẽ không bao giờ đi tìm hạnh phúc
cho mình một cách ích kỷ, độc ác. Họ sẽ đi tìm hạnh phúc bằng cách đem niềm
vui đến cho mọi người. Và đương nhiên Luật Nhân Quả sẽ mang niềm vui đến cho
họ gấp bội lần.

Xuất phát tự niềm mong ước đó, chúng tôi có tham vọng được trình bày đôi
phần về Luật Nhân Quả Nghiệp Báo với lý luận lôgic, hợp với khoa học. Và
những điều trình bày nơi đây có thể sẽ là sự gợi ý cho những ai về sau muốn
chứng minh Luật Nhân Quả một cách chặt chẽ như một phương trình toán học
hoàn chỉnh đa chiều.

Những ý kiến ghi lại trong tập sách bé nhỏ này hy vọng sẽ đóng góp được một
chút gì cho nền đạo đức của nhân loại hôm nay. Và nếu có công đức thì công
đức đó sẽ thuộc về những vị thầy đã dạy dỗ chúng tôi, những huynh đệ đã yêu
mến đùm bọc chúng tôi, những đạo hữu đã giúp đỡ chúng tôi, và sau cùng nó
thuộc về tất cả mọi người trong pháp giới.

Tác giả kính bút
Am Thanh Lương, năm Nhâm Thân
Chân Quang

CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VỀ NGHIỆP BÁO

Nghiệp Báo là từ gọi tắt đầy đủ của nghiệp và sự báo ứng, hay nghiệp và kết
quả của nghiệp.

Nghiệp, karma, là sự hoạt động của ý nghĩ, lời nói và hành động của mọi loài
hữu tình có thể tạo thành một kết quả vui khổ về sau. Nếu bởi nghiệp thiện,
chúng ta đem niềm vui cho kẻ khác, kết quả về sau chúng ta sẽ được vui. Nếu
chúng ta bố thí cho người nghèo, chúng ta sẽ được đầy đủ tài vật. Nếu chúng
ta chăm sóc sức khỏe cho người bệnh, chúng ta sẽ được mạnh khỏe. Còn nếu bởi
nghiệp ác, chúng ta gieo đau khổ cho người khác, đau khổ sẽ trở lại với
chúng ta. ” Mắt phải đền mắt, răng phải đền răng” (* Thánh kinh) (Nghiệp Báo
đấu tranh). Đó là sự công bằng vô hình chi phối tất cả.

Đôi khi chúng ta cũng gọi luật Nghiệp Báo là Luật Nhân Quả. Nghiệp được xem
là nguyên nhân và sự báo ứng được xem là kết quả.

Tuy nhiên tên gọi Nhân Quả này có một phạm vi quá rộng, bao gồm cả mọi hình
thức Nhân Quả khác của cuộc đời, vật lý, xã hội, tâm lý… Còn tên gọi
Nghiệp Báo là sự chuyên biệt cho riêng tính chất thiện ác mà thôi.

Ví dụ như cho rằng ngọn lửa là nguyên nhân và nước sôi là kết quả. Cái Nhân
Quả này không dính líu gì đến sự báo ứng của nghiệp. Hoặc nhiên liệu là
nguyên nhân, sự chuyển động của xe là kết quả, nhờ nhiên liệu làm cho xe
khởi động. Cái tương tác Nhân Quả này khác với Nhân Quả của nghiệp.

Hạt được gieo xuống đất, một số các điều kiện được bổ sung như nước, phân,
ánh sáng, rồi hạt nẩy mầm, thành cây, kết trái. Cái Nhân Quả của thực vật
này cũng cách xa với Nhân Quả của nghiệp mặc dù các nhà đạo học thường dùng
hình ảnh này để minh họa cho đường đi của nghiệp.

Các hình thức Nhân Quả của khoa học dễ quan sát trong khi Nhân Quả của
nghiệp thì vô hình và ảnh hưởng qua nhiều kiếp luân hồi nên không thể quan
sát bằng mắt thường được. Ví dụ cho rằng việc gia tăng dân số là nguyên nhân
dẫn đến kết quả suy thoái kinh tế xã hội. Điều này có thể chứng minh rất rõ
ràng. Chính vì thế mà các nhà xã hội học ra sức kêu gọi mọi người làm giảm
dân số bằng cách sinh đẻ có kế hoạch.

Hoặc việc sử dụng các nhiên liệu địa khai như dầu mỏ, khí đốt, than đá làm
tăng lượng carbonic trong khí quyển phát sinh hiệu ứng nhà kính, làm xáo
trộn sinh thái Địa cầu, gây nhiều ảnh hưởng tai hại cho đời sống toàn nhân
loại. Những loại Nhân Quả như trên không phải là Nghiệp Báo nhưng rõ ràng có
ảnh hưởng đến khổ vui của con người.

Thế còn việc sử dụng nhiên liệu địa khai làm ô nhiễm môi trường, sử dụng khí
Fréon làm thủng tầng Ozone trên khí quyển thì sao ? Tầng Ozone có tính chất
bảo vệ trái đất khỏi các tia vũ trụ độc hại. Nhưng núi lửa, các khí Flor
công nghiệp đã làm mỏng và rách lớp Ozone này gây nguy hại cho loài người.

Ngay cả các hàng Alahán được xem là vô học, không còn nghi ngờ gì với vấn đề
giải thoát, nhưng nếu quay lại cứu độ mọi người thì kiến thức luôn luôn vẫn
cần thiết với các Ngài. Ông Krishnamurti một vị đạo sư của thời đại, không
bao giờ xao lãng việc quan sát sự tiến bộ của khoa học trên thế giới.

Một vị chủ trì ngôi tự viện, do thiếu kiến thức, đã áp dụng một Thanh qui
sai lầm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và tâm linh của đại chúng. Một nhà thuyết
pháp do thiếu kiến thức đã giải thích giáo lý đi ngược với khoa học, gây mê
tín và làm giảm giá trị của đạo.

Họ đều phải nhận lấy quả báo nguy hiểm về sau.

Rồi sự tận hưởng những tiện nghi quá đáng đưa đến sự phá hoại sinh thái Địa
cầu cũng được xem là một tội lỗi đáng kể. Con người nên tập sống đời đơn
giản gần với thiên nhiên hơn là cứ mãi đòi hỏi những tiện nghi sang trọng mà
không để ý đến sức chịu đựng có hạn của môi trường.

Hoặc một kẻ phạm tội trộm cắp, giết người bị nhà chức trách bắt giam. Cái
Nhân Quả xã hội này giống hệt với luật Nghiệp Báo là một minh chứng của
Nghiệp Báo.

Hoặc một bác sĩ tận tụy chữa bệnh nhân, ông được khen thưởng và thăng chức.
Cái Nhân Quả xã hội này không khác với luật Nghiệp Báo.

Nhưng nó vẫn không phải là luật Nghiệp Báo vì nó chưa đạt đến sự công bình
tuyệt đối. Kẻ tội phạm ranh ma vẫn có thể che mắt luật pháp. Vô số các vụ án
chưa phá được. Và không thiếu những người tận tụy tốt bụng bị trù dập vì
không ăn cánh với kẻ xấu.

Những người lãnh đạo chính quyền luôn luôn cố gắng đi tìm sự công bằng cho
xã hội, nhưng từ xưa tới nay, cái công bình do con người tạo ra bằng khuôn
mẫu pháp luật chỉ đạt được hiệu quả phần nào. Ví dụ một vị chánh án, do
thiên kiến cá nhân đã nương nhẹ mức án với người này, gia tăng mức án với
người khác. Trước mắt, mọi người đều phải chấp nhận cái công bình tạm thời
do con người, do xã hội thành lập.

Nhiều tôn giáo đã nêu lên cái công bình tuyệt đối của Thượng Đế, kêu gọi con
người hãy an tâm trước những cái bất công còn đầy trên xã hội, bởi vì Thượng
Đế sẽ phán xử lại tất cả sau khi chết hoặc sau ngày tận thế.

Ở đây, với luật Nghiệp Báo, những gì con người làm cho người khác sẽ trở lại
cho họ một cách công bình, chắc chắn và hợp lý.

Với một lý luận dễ hiểu, chúng ta có thể nói rằng một nghiệp thiện sẽ tạo
thành một kết quả vui, và một nghiệp ác sẽ tạo thành một kết quả khổ. Ví dụ
người hay san sẻ vật chất sẽ được giàu sang, người hay tự cao sẽ rơi vào địa
vị hèn hạ.
Tuy nhiên để hiểu thế nào là thiện ác chúng ta phải lệ thuộc vào hoàn cảnh
thời đại. Thông thường chúng ta quan niệm rằng một hành động được gọi là
thiện khi nó đem niềm vui đến cho kẻ khác, được nhiều người khen ngợi.

Hãy xét trường hợp nơi một bộ tộc bán khai có tục lệ giết một cô gái đẹp mỗi
năm để tế thần.

Cô gái được chọn cũng cảm thấy vinh dự. Đối với họ hành động này là thiện,
trong khi những nơi khác hết sức kinh tởm. Như vậy quan niệm thế nào là
thiện ác cũng chỉ tương đối, bị biến thiên theo hoàn cảnh.

Hoặc cha mẹ quở phạt con cái làm nó khó chịu, thấy dường như ác, kỳ thật đem
lại ích lợi cho nó lâu dài về sau.

Quan niện về thiện ác bị biến thiên theo nhiều điều kiện, còn luật Nghiệp
Báo thì bất biến.

Những điều gì chúng ta làm cho người khác sẽ trở lại với chúng ta một cách
công bình.

Ví dụ nơi bộ tộc giết người để tế thần, luật Nghiệp Báo không phê phán thiện
hay ác, chỉ lẳng lặng sắp xếp để cho những kẻ giết người cũng sẽ được đưa
lên giàn hỏa vào một lúc khác.

Nếu ban phát tình thương, chúng ta sẽ trở thành vị thánh. Nếu truyền bá kiến
thức, chúng ta sẽ trở thành nhà bác học. Nếu phổ biến phương pháp thiền
định, chúng ta sẽ đắc định sâu thẳm. Những gì đem đến cho người, sẽ trở lại
với chúng ta. Những người quên mình để giúp đỡ mọi người sẽ đầy đủ tất cả.
Tuy nhiên, với đôi mắt phàm phu này không ai có thể chứng kiến một nghiệp
nhân sẽ đưa đến một quả báo ra sao.

Một tên cướp giết người, lẩn trốn pháp luật rồi mọi chuyện phôi pha, vụ án
không phá được. Có chắc là y sẽ phải chịu một quả báo nào xứng đáng vào
tương lai hay không ? Có chắc là y sẽ té xuống vực thẳm, bị đụng xe, hay bị
người khác giết lại không ?

Hoặc một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình giàu có, có chắc là đời trước nó
đã từng biết bố thí giúp đỡ mọi người hay không ? Có chắc là nó đã từng cúng
dường cho những bậc thánh thiện hay không ?

Chính cái khoảng thời gian ngăn cách làm cho luật Nghiệp Báo trở nên bí ẩn,
khó thấy và khó chấp nhận.

Trường hợp chúng ta giúp đỡ ai, họ mang ơn, sau này họ đền ơn. Cái Nhân Quả
này dễ thấy vì đơn giản. Nhưng đôi khi gặp kẻ vô ơn, không đếm xỉa gì đến
chúng ta.

Hoặc trước kia chúng ta lầm lỡ hại người, họ mang oán thù và tìm dịp mưu hại
chúng ta. Điều này có vẻ công bình và hợp lý với tính chất của Nghiệp Báo.
Nhưng đôi khi gặp những người độ lượng tha thư,ù họ không tìm cách trả thù.
Như vậy luật Nghiệp Báo cũng không dựa vào tâm lý vô ơn hay biết ơn, oán thù
hay tha thứ của con người. Nó âm thầm đi con đường riêng, mặc cho tâm lý của
con người thay đổi.

Giống như một tấm gương bí mật phản chiếu ánh sáng. Người không biết về tấm
gương ở trên cao kia sẽ phải ngạc nhiên tại sao với một ngọn đèn ở đây, bị
ngăn cách nhiều lớp vách, lại xuất hiện một vầng sáng ở bên kia. Cũng vậy,
không thấy được tấm gương phản chiếu Nghiệp Báo, chúng ta sẽ ngạc nhiên tại
sao một nghiệp thiện ác ở đây, bị ngăn cách bởi thời gian và không gian dị
biệt, lại xuất hiện một quả báo vui khổ ở nơi khác.

Tấm gương tượng trưng cho BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI của vũ trụ. Tính chất phản chiếu
của gương tượng trưng cho luật Nghiệp Báo. Ngọn đèn tượng trưng cho nghiệp
nhân. Vầng sáng bên kia tượng trưng cho Quả báo, còn những lớp vách tượng
trưng cho những khoảng không gian gần xa. Chiều cao của tấm kính chính là
chiều sâu tâm linh, không phải chiều cao vật lý.

Không biết về tấm gương Bản Thể này, chúng ta càng không biết gì về tính
chất phản chiếu Nghiệp Báo của nó. Đứng trước sự khổ vui của con người,
chúng ta không thể hiểu nguyên nhân ban đầu ra sao. Nhìn hành vi thiện ác,
chúng ta không lường được kết quả sẽ xuất hiện thế nào.

Chỉ có những bậc thánh chứng đạo viên mãn đã có thể thểånhập trọn vẹn Bản
Thể Tuyệt Đối, đạt được sự hợp nhất với toàn thể vũ trụ, mới thấy rõ tính
chất phản chiếu của Nghiệp Báo công bình hoàn toàn.

Đức Phật gọi khả năng thấy rõ đường đi của nghiệp là Thiên Nhãn Minh. Như
vậy thiên nhãn không phải là con mắt trời để nhìn cảnh vật xa gần cho vui. Ở
đây, Thiên nhãn có nghĩa là một trong nhiều khả năng của bậc đạt đạo, có thể
tận tường sự vận hành của nghiệp trong việc tạo thành quả báo về sau.
"Như một người trên lầu cao tại ngã tư đường nhìn người qua lại, cũng vậy,
với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên, vị Alahán thấy rõ các hạnh nghiệp và
quả báo của mọi người. Những kẻ tạo thiện nghiệp sẽ sinh vào chỗ an vui.
Những kẻ tạo ác nghiệp sẽ sinh vào nơi đau khổ"

Vào trước thời kỳ Đức Phật ra đời, đối với Ấn Độ, Trời là tượng trưng cho sự
cao cả nhất trong vũ trụ. Thế nên Đức Phật dùng từ thiên nhãn, thiên nhĩ
cũng có nghĩa là chỉ cho khả năng hiểu biết cao nhất của bậc đạt đạo. Sau
thời Đức Phật, trong Phật giáo, khái niệm "Trời" trở thành kém giá trị nên
những luận bản cho ra đời một số từ mới thích hợp hơn như huệ nhãn, pháp
nhãn, Phật nhãn.
Lúc đó từ thiên nhãn bị hiểu thấp hơn ý nghĩa ban đầu. Thật ra, thời Đức
Phật tại thế, Phật dùng từ Thiên nhãn là ám chỉ giá trị cao nhất không gì
hơn.

Nếu chúng ta bất chợt hỏi một vị Thánh đạt đạo một điều chuyên môn nào đó,
các Ngài vẫn có thể không biết. Vì sao các Ngài không biết trong khi khả
năng của thiên nhãn là siêu việt và có thể gọi là tuyệt đối ?

Thật ra Bản Thể có hai tính chất: tịch diệt và thông đạt.

Tịch diệt hoàn toàn và thông đạt hoàn toàn.

Một vị đạt đạo, tùy theo ý mình có thể an trụ trong tịch diệt tuyệt đối, và
không cần phải biết điều gì, bởi vì đối với bản thân các ngài, biết hay
không biết chẳng có gì quan trọng. Tuy nhiên, khi có một vấn đề cần tìm hiểu
để hóa độ chúng sanh, các Ngài hướng về tính chất thông đạt và lập tức mọi
chuyện phơi bày rõ ràng.

Nếu chúng ta hỏi các Ngài đúng vào điều đã được các Ngài quan sát trong
định, các ngài sẽ trả lời rành mạch. Ngược lại các ngài vẫn chưa biết.

Do đã từng "quan sát" sự luân hồi của nhiều người, bậc đạt đạo hiểu rõ tính
chất của Nghiệp Báo hơn chúng ta. Các ngài hiểu rõ vì sao một người phải
mang thân nữ, vì sao một người được thông minh, vì sao một người chịu hèn
kém. Trong đời sống, các Ngài luôn luôn cẩn thận từng hành vi, vì trí tuệ
các ngài luôn soi sáng và không chấp nhận một sự sơ hở nhỏ nhặt nào. Cả cuộc
sống của các ngài là một bức tranh đạo đức toàn vẹn. Nhìn thấy mọi người tạo
nghiệp thường xuyên, quay qua bên phải làm một việc bậy, quay qua bên trái
nói một lời bậy, cúi xuống khởi một ý nghĩ xấu, với lòng bi mẫn, các ngài
rất thương xót vì biết họ sẽ chịu nhiều bất hạnh ở tương lai.

Đối với bậc thánh đạt đạo, luật Nghiệp Báo là một sự thật hiển nhiên không
còn gì phải nghi ngờ bàn cãi. Các ngài tuyên bố giảng dạy về Nghiệp Báo một
cách xác quyết hùng hồn, khiến cho chúng ta tin hiểu và biết sống cuộc đời
đạo đức hơn. Các tín đồ của đạo Phật, đạo Ấn độ tin sâu vào Luật Nhân Quả
Nghiệp Báo bởi vì họ được các giáo tổ dạy bảo rất nhiều. Hơn nữa tính chất
công bình của Nghiệp Báo phù hợp với lương tâm của con người.

Tận trong thâm tâm ai cũng cảm thấy kẻ ác đáng bị phạt và người thiện đáng
được thưởng. Do đó với luật Nghiệp Báo, điều mong mỏi của họ được đáp ứng,
và làm họ yên tâm dù cuộc đời có bất công, con người có thiên vị. Cuối cùng
luật Nghiệp Báo sẽ giải quyết công bình tất cả.

Chính vì luật Nghiệp Báo phù hợp với lương tâm con người nên ngay cả những
người không có khuynh hướng tín ngưỡng cũng thầm chấp nhận sự thật hữu của
Luật Nhân Quả này. Họ tin có một sự công bình âm thầm chi phối đời sống của
con người để người tốt sẽ hưởng được nhiều may mắn và kẻ xấu phải chịu nhiều
tai vạ.

Tục ngữ Anh có câu:
"Man reaps what he sowed" (Người ta gặt những gì mình gieo). Hoặc người Việt
Nam nói "Ở hiền gặp lành" "Gieo gió gặt bão"… đều phản ánh niềm tin sâu
sắc vào luật Nghiệp Báo này.

Chỉ có hai hạng người không tin Nghiệp Báo, đó là kẻ độc ác không muốn tin
vì sợ mình phải trả Nghiệp Báo sau này, hai là kẻ đòi hỏi phải có một sự
chứng minh lôgic, chứ họ không tin nơi cái trực cảm của nội tâm.

Trong bộ phim "Chiến tranh giữa các vì sao" một nhà bác học đã dạy cho học
trò để trở thành hiệp sĩ Reidei phải biết tin vào cái trực cảm của nội tâm
hơn là cái thấy nghe của tai mắt, vì có những sự thật mà tai mắt không nhìn
thấy, chỉ có cái trực quan mới cảm nhận đuợc mà thôi.

Ở đây cũng vậỵ, trong khi khoa học chưa đủ sức chứng minh luật Nghiệp Báo,
nếu không sử dụng cái trực cảm này, chúng ta cũng không hiểu được sự có mặt
của luật Nghiệp Báo âm thầm chi phối đời sống của ta trong từng phút giây
nhỏ nhiệm. Một mặt chúng ta cố gắng đi tìm sự chứng minh cho luật Nghiệp
Báo, mặt khác chúng ta cũng phải biết dùng cái trực quan của nội tâm để tin
hiểu luật kỳ diệu này.

Khoa học ngày nay còn quá hạn chế, chưa thể biết nhiều về các nguyên lý của
vũ trụ. Chúng ta có thể chụp hình một nguyên tử, biết gần hết mọi hatï cơ
bản của nguyên tử, nhưng đây chỉ là một lãnh vực nhỏ so với vô số quy luật
khác. Một thời gian dài người ta còn cho các định luật của Newton
(1642-1727) là hoàn hảo. Đến khi Einstein (1879-1955) đưa ra thuyết Tương
đối, mọi vấn đề đã khác hẳn, khoa học bước vào một kỷ nguyên mới, phải dùng
đến tư duy vô cùng trừu tượng làm điên đầu các nhà bác học đương thời. Trước
kia Geothe đã ca ngợi Newton bằng đoạn thơ:

"Ngày xưa vũ trụ mờ mịt tối tăm
Nhưng Thượng đế bảo có Newton
Thế là mọi vật trở nên sáng sủa trật tự”
Sau này một người khác đã khôi hài thêm vào :
“Rồi qủy Satan hiện ra bảo: Có "Einstein"
Thế là mọi vật lại chìm trong bóng tối”

Với Newton, các lý thuyết về luật hấp dẫn, chuyển động rất cụ thể rõ ràng
như hai với hai là bốn. Nhưng với Einstein, Lý thuyết về vũ trụ cực kỳ trừu
tượng, biến ảo khôn lường. Ví dụ như ông cho rằng không gian và thời gian bị
thay đổi theo nhiều điều kiện như trọng trường, vận tốc, tỉ trọng… Một
người di chuyển một vận tốc như vận tốc ánh sáng, họ sẽ cảm thấy trải qua
vài giờ trong khi cùng lúc đó ở Địa cầu cảm thấy đã trải qua vài chục năm.
Hoặc ông cho rằng không gian và thời gian có liên hệ với vật chất của vũ
trụ. Nếu không còn một vật chất nào, không còn một ngôi sao nào, thì mọi
người sẽ tưởng vẫn còn một khoảng không gian bao la vô tận, nhưng ông cho
biết sẽ chẳng còn có không gian và thời gian nào cả.

Lý thuyết như vậy quá sức trừu tượng, vượt khỏi cái tư duy truyền thống của
con người vốn quen với các điều cụ thể. Để hiểu được lý thuyết của Einstein,
các nhà bác học phải sử dụng nhiều đến trực quan hơn là sử dụng lý luận
thông thường của ý thức.

Những lý luận của Einstein mở ra một chân trời mơiù mẻ cho tư duy trong khoa
học. Con người được làm quen dần với những chân lý mới lạ, không thể dùng
tai mắt để nhận biết, mà chỉ có thể dùng trí tuệ trực quan để hiểu mà thôi.
Mặc dù nhờ vào Einstein, khoa học bước được một bước dài, nhưng để chứng
minh được đường đi của Nghiệp Báo, chúng ta cũng còn phải chờ nhiều sự phát
minh của các thiên tài sau này nữa.

Khoa học hiện nay chưa biết hết tính chất của não bộ với hơn 10 tỷ neuron
(vào thời điểm 1991)

Sự phối hợp của các neurone để giải quyết các tín hiệu tư duy, sự trao đổi
chất một cách nhịp nhàng vẫn còn là bí ẩn. Hơn nữa, tính chất chủ quan của
não bộ vẫn xa lạ với sự nghiên cứu khách quan từ bên ngoài vào. Do đâu não
bộ hình thành một bản năng sống mãnh liệt, con người luôn luôn tìm cách duy
trì sự sống của mình một cách gay gắt. Do đâu một ước muốn của một nhà ngoại
cảm có thể làm tan mây trên trời ?

Như Ignatenko, ở Ukraines đưa bàn tay lên bầu trời đen kịt, với một tâm niệm
duy nhất "Mây hãy tan ra" .Vài phút sau mây tan dần trước mắt mọi người,
trời bắt đầu hừng nắng.

Vô số các hiện tượng ngoại cảm làm các nhà khoa học ngạc nhiên và chưa thể
giải thích được.

Rồi các đĩa bay (UFO) từ đâu bay đến bay đi một cách ung dung thoải mái với
các phương pháp di chuyển ngoài sự hiểu biết của người Địa cầu. Làm thế nào
họ có thể đến đây sau khi vuợt qua đoạn đường dài mấy trăm năm ánh sáng.
(Chòm sao Veda cách 100 năm ánh sáng. Chòm Orion cách 1300 năm)
Tất cả vẫn còn là bí ẩn, có nghĩa là khoa học vẫn còn nhiều hạn chế chưa thể
hiểu được. Nếu ai đó đòi hỏi phải dùng lý luận của khoa học hôm nay để chứng
minh luật Nghiệp Báo như một phương trình toán học chặt chẽ, họ sẽ thất
vọng. Ngày đó còn xa lắm. Nhà toán học L.A.Zadeh vào năm 1965 đã đưa ra lý
thuyết TẬP MỜ (Fuzzy Lozic) để đưa toán học đi vào lãnh vực trừu tượng. Lý
thuyết này đang được áp dụng vào máy vi tính hiện đại để tạo ra người máy
thông minh, và áp dụng vào các ngành xã hội học, ngôn ngữ học, y học, sinh
học… tức là những ngành trừu tượng.

Có thể nói khoa học đang đi dần vào các lãnh vực trừu tượng ngoài cái thấy
biết cụ thể của tai mắt. Đây là một khởi điểm đáng mừng vì chân lý luôn luôn
rất trừu tượng, và nơi chân lý tột cùng này, tính chất phản chiếu của nghiệp
mới hy vọng được hiện bày trọn vẹn.

Muốn chứng minh sự thật hữu của nghiệp, khoa học cần phải mở rộng qua nhiều
lãnh vực khác, đa dạng hơn, trừu tượng hơn và phổ quát hơn. Với một tập sách
nhỏ bé này, chúng tôi có một tham vọng gợi ý một tiến trình cho mục đích
chứng minh đó bằng cách kết hợp với các kiến thức sớ đẳng, về lý thuyết
tương đối của Einstein, kiến thức về vô thức, trường sinh học, khái niệm về
Bản Thể Niết Bàn của Phật giáo. Sự hiểu biết và trình bày của chúng tôi quả
là quá sơ đẳng, đơn giản và ít ỏi, nhưng hy vọng nó cũng vạch ra một vài tia
sáng mong manh nào đó, giúp con người tin vào sự thật hữu của luật Nghiệp
Báo hơn trong khi chờ đợi sự phát minh vĩ đại của người khác. Dù sao trong
đêm tối hoang vu, một vài tia sáng cũng có thể làm vui lòng khách lữ hành
đang t�
�m về chân lý.

CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN VẬT LÝ

Không gian vật lý là đối tượng được nhận thức rõ ràng của khoa học hôm nay.
Với người xưa, không gian này là một thế giới nhỏ bé với vòm trời phủ lên
mặt đất, các ngôi sao lấp lánh vào ban đêm, ánh trăng treo nghiêng nghiêng
và ánh mặt trời rực rỡ.

Hôm nay không gian là cả một vũ trụ bao la với vô số thiên thể tập hợp thành
thiên hà. Mặt trời của chúng ta là một ngôi sao nhỏ bé nằm trong một thiên
hà có tên là Ngân hà.

Với sự quan sát theo điều kiện của trái đất, thời gian có một hệ thống căn
bản là giây phút giờ. Đơn vị đo thời gian được lấy theo vòng quay của trái
đất, hoặc sóng giao động của các nguyên tử.

Với một hệ thống không gian thời gian này, mọi qui luật vật lý đang được
khám phá dần dần tới từng electron điện tử và tới những hạt bức xạ vô cùng
nhỏ hơn nữa.

Các tàu ngầm lang thang dưới biển để tìm hiểu thế giới đại dương. Các mũi
khoan dò vào lòng đất tìm hiểu cấu tạo địa chất. Các tấm kính thiên văn
hướng vào vũ trụ mênh mông để tìm hiểu thiên thể xa xăm. Các kính hiển vi
điện tử đang đột phá vào thế giới vi mô của cấu trúc nguyên tử.

Các nguyên tắc về chuyển động được tìm hiểu khá rõ ràng (trừ nguyên tắc
chuyển động của các UFO) đủ cho con người thực hiện các chuyến bay ra khỏi
trọng trường của trái đất.

Môi trường sinh thái của Địa cầu được theo dõi chặt chẽ để con người có thể
phát hiện ra từng biến đổi nhỏ nhất. Các sóng điện tử phủ trùm cả mặt đất để
làm phương tiện thông tin khắp nơi. Máy vi tính đã có thể thực hiện những
tính toán vô cùng phức tạp và người ta đang ra sức tìm kiếm trí tuệ nhân
tạo. Những bệnh nan y như ung thư, AIDS được hiểu thấu tới từng đường tơ kẽ
tóc (thực ra đường tơ kẽ tóc quá lớn) và việc tìm cách chữa trị cho hiệu quả
chỉ là vấn đề thời gian. Tia laser xâm nhập vào mọi ngành nghề làm tăng thêm
hiệu quả.
Khoa học phát triển với tốc độ chóng mặt. Và tội ác cũng chạy đua với tốc độ
tương đương.

Khắp nơi, con người vẫn tiếp tục lừa đảo, giết hại, chia rẽ, thù hận lẫn
nhau không giảm bớt chút nào. Phương tiện về vũ khí, liên lạc làm cho kẻ
khủng bố gia tăng mức độ phá hoại nguy hiểm hơn. Sức tàn phá của chiến tranh
dữ dội hơn.

Những điều mà khoa học tìm thấy nơi không gian vật lý này không giúp ích gì
cho con người cải tạo đạo đức của họ!

Với hình học Euclide và vật lý học Newton, không gian này khá ổn định, ngay
ngắn, đơn giản. Hai đường thẳng song song sẽ không bao giờ giao nhau. Lực
hấp dẫn tuỳ thuộc vào khối lượng vật thể, khoảng cách và với hằng số K. Ba
ngày ở trái đất cũng giống như ba ngày ở một ngôi sao xa xăm nào đó.

Nhưng với Einstein, không gian và thời gian bị biến dạng một cách kỳ cục
theo các điều kiện. Ví dụ ở một thiên thể mà mật độ trọng trường cao hơn,
nghĩa là một người nặng 50 kg ở Địa cầu, sẽ nặng cả tỷ ký ở đó, thì thời
gian và không gian không giống như ở Địa cầu.

Chuyện này giống như chuyện cổ tích Từ Thức lạc vào động tiên vài năm đến
khi trở lại trần gian thì ở đây đã trôi qua vài chục năm rồi.

Khoảng cách cũng bị thay đổi tương tự. Một vật dài ba mét ở Địa cầu, có thể
chỉ còn vài phân ở thiên thể kia.

Hoặc vận tốc cũng làm thay đổi thời gian và không gian. Với vận tốc gần
bằng vận tốc ánh sáng, vật thể còn lại phân nửa chiều dài ở quả đất, và thời
gian dường như chỉ vài giờ, trong khi ở quả đất vài mươi năm.

Một sự biến đổi nơi này đều có ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ, dù rất ít. Vì
cả vũ trụ là sự tổ hợp cấu thành chặt chẽ bởi toàn bộ vật chất – năng
lượng – không gian -thời gian. Nếu không có vật chất thì không có cái khoảng
không mênh mông kia. chúng ta đừng nghĩ đơn giản không gian tức là không có
gì, không bị ảnh hưởng bởi không có điều gì. Trái lại không gian là cái được
tạo thành bởi vật chất.

Với cấu trúc của các thiên thể như hiện nay thì không gian là như khoảng
không bây giờ. Nếu các thiên thể có cấu trúc khác hẳn, gần hơn, xa hơn hình
dáng lạ lùng hơn thì không gian sẽ biến đổi kỳ cục hơn. Nhưng kỳ cục như thế
nào thì hãy đợi tính toán.

Một xác thú vật bị mục rữa, tan hoại, mất dần dường như không có ảnh hưởng
gì đến toàn nhân loại đang nhởn nhơ sinh sống và giành giật. Thật ra nó đã
thải vào không khí nhiều thành phần mới lạ do các vi khuẩn tạo ra trong khi
gặm nhấm xác chết. Ảnh hưởng của các khí thải đó tuy nhỏ nhưng cũng góp phần
làm biến đổi môi trường.

Một người bị giết hình như không ảnh hưởng gì đến toàn trái đất đang tỉnh bơ
ăn uống hưởng thụ. Nhưng đằng sau đó là sự thay đổi lớn lao cho gia đình
thân quyến. Người vợ có thể sẽ tái giá. Con cái có thể sẽ hư hỏng và xã hội
thêm nhiều nguy hiểm.

Điều chúng ta quan tâm là chính nơi không gian vật lý này, mọi người gây lấy
nghiệp nhân và nhận lấy quả. Nhưng chúng ta không thể tìm thấy đường đi của
Nghiệp Báo nơi đây vì sự ngăn cách của thời gian và không gian
Ví dụ, một tên cướp giết người và trốn được sự điều tra của pháp luật, mười
năm sau y lái xe qua dốc núi, tay lái bị tuột ốc, xe không thể giữ phương
hướng đã lao xuống vực thẳm.

Có thể suy luận viễn vông rằng sau cái chết của nạn nhân, người vợ tảo tần
nuôi cho con ăn học, nhưng không đủ sức, đã cho người con đi học nghề ở xa.
Người con này về sau có nhiều bạn bè và một trong những người bạn đó là thợ
sửa xe hơi. Vào lần giỗ thứ mười của người cha mình, người con đã mời bạn bè
đến dự tiệc. Vì vội vàng lo đi dự đám giỗ, người thợ máy đã lắp không kỹ
volant cho đúng chiếc xe của tên giết người ngày xưa. Khi leo lên dốc núi,
tên này nhận lấy quả báo

Hoặc viễn vông hơn, ví dụ như ông Đình đã bố thí một số tiền lớn để đắp con
đường trong làng rồi ông chết, sinh qua một quốc gia khác. Nhờ con đường đó
đời sống trong làng dễ dàng hơn. Nhiều đứa trẻ trong làng được ăn học tới
nơi tới chốn. Một trong những đứa trẻ đó đi du học, trở thành giáo sư dạy
cho ông Đình (lúc này còn trẻ). Nhờ vị giáo sư đùm bọc, ông Đình ở kiếp này
thành công lớn lao.

Có thể là nghiệp đã đi theo con đường ngoằn ngoèo đó để đến được quả báo.
Nhưng nếu đi tìm Nghiệp Báo theo không gian vật lý này, thì chúng ta sẽ bối
rối vì mỗi trường hợp đều có đường đi riêng, không trường hợp nào giống
trường hợp nào. Khó hơn nữa là sự ảnh hưởng lan truyền dần đến khi người tạo
nhân đã sinh qua kiếp khác mà vẫn nhận được ảnh hưởng do chính mình đã tạo
nên từ kiếp trước. Làm sao kiểm soát được một người sẽ tái sinh về đâu,
trong khi khoa học chưa có loại máy dò tái sinh này.

Hoặc như anh Khải học rất giỏi toán nhờ một vị giáo sư am tường toán học dạy
dỗ. Chính vị giáo sư này giỏi toán nhờ vào một số sách được soạn rất công
phu. Không ngờ rằng các sách đó là do Khải soạn từ kiếp trước.

Có những trường hợp phải qua cả trăm trung gian, người ta mới hưởng được
thành quả của mình. Tìm đường đi của nghiệp trong trường hợp này thật không
đơn giản.

Có những điều được xem là may mắn hay rủi ro. Kỳ thực, nó hoàn toàn là kết
quả của một nghiệp từ trước. Ảnh hưởng của nghiệp đó đi lang thang trong
không gian vật lý (cuộc sống thực tại) qua nhiều trung gian, cuối cùng gặp
lại người đã tạo ra nó.

Tác giả Kim Dung chuyên viết các truyện võ hiệp của Trung Hoa, người mà tên
tuổi vang lừng khắp thế giới vì tính triết lý sâu thẳm chứa đựng trong tác
phẩm, đã tâm đắc loại Nghiệp Báo có tác dụng trực tiếp ngay trong cuộc sống
thực tại này. Các tác phẩm của ông đều có một cấu trúc chặt chẽ về Nhân Quả.
Ông không bỏ sót một hành vi thiện ác nào mà không nói đến quả báo của nó.

Thạch phá Thiên hy sinh ăn giùm cháo lạp bát cho các đồng đạo võ lâm, ai
cũng nghĩ cháo có độc, nên vô tình được tăng công lực lên nhiều lần (Hiệp
Khách Hành).

Tây Độc Âu Dương Phong vì tâm niệm độc ác nên cuối cùng trở thành người
điên. Nhưng trong khi điên,ông trở nên hiền lành tốt bụng, và cuối cùng ông
tỉnh lại, chết trong hân hoan.

Quách Tĩnh giúp cho Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm khắp nơi, cuối cùng phải tự
tử vì giữ không được thành Tương Dương trước quân đội của nhà Nguyên (Võ Lâm
Ngũ Bá)

Toàn bộ những tác phẩm của Kim Dung đều không bị sơ hở về Nghiệp Báo. Tuy
nhiên ông thích chứng minh loại Nghiệp Báo cụ thể, dễ thấy được ảnh hưởng
của nghiệp đưa đến quả báo như thế nào ngay trong cuộc đời của nhân vật.
Dĩ nhiên là đường đi của nghiệp trong không gian vật lý này không phải là
cốt lõi của luật Nghiệp Báo vì nó không đi theo một quy luật nào. Đôi khi
chúng ta thấy nó có tính may rủi. Ví như việc mà người thợ máy vì vội vàng
đi ăn giỗ đã ráp cái volant không kỹ cho tên cướp, sự kiện này giống như vô
tình hên xui vậy thôi chứ không có vẻ chắc chắn, Nhưng chính sức mạnh Nghiệp
Báo trong vô hình đã ráp nối các sự kiện lại, để cho tên cướp nhất định phải
đưa xe đến sửa vào lần giỗ thứ mười của nạn nhân của y.

Như vậy trong không gian vật lý này, chúng ta có thể quan sát ảnh hưởng của
nghiệp đi dần đến quả báo như thế nào, nhưng chúng ta vẫn không thể "thấy"
bản chất của luật Nghiệp Báo ở đâu vì luật Nghiệp Báo là một tính chất của
Bản Thể Tuyệt Đối. Chỉ những vị thánh siêu phàm đã chứng đạt Bản Thể mới
“nắm” được quy luật này một cách tường tận mà thôi.

Tuy nhiên, vũ trụ vật lý này là bề ngoài của Bản Thể. Vũ trụ vật lý không
tách rời với Bản Thể. Chúng ta có thể ví Bản Thể như gốc cây mà vũ trụ vật
lý giống như là hoa trái muôn màu muôn vẻ. Dù cho vũ trụ có ngàn sai muôn
khác nhưng đều quy đồng ở Bản Thể. Chúng ta có thể ví Bản Thể như bóng đèn
mà vũ trụ vật lý giống như ánh sáng qua lăng kính nhiều màu. Ánh sáng tuy
nhiều màu sắc nhưng đều quy đồng tại bóng đèn. Cũng vậy, các hiện tượng của
vũ trụ vật lý sinh sinh hóa hóa vô cùng tận nhưng đều chung đồng ở Bản Thể.
Chính trong Bản Thể này luật Nghiệp Báo hình thành và chi phốí đời sống của
mọi người trong thế giới vật lý. Sức mạnh của luật Nghiệp Báo vô cùng to lớn
dù chúng ta không thể trông thấy bằng mắt thường.

Trong thế giới vật lý, ảnh hưởng của một nghiệp nhân đi ngoằn ngoèo lang
thang qua trung gian người này đến người khác rồi giống như vô tình, gặp lại
tác giả đã tạo ra nghiệp ban đầu để đem cho tác giả niềm vui hay nỗi khổ.
Nếu quan sát trên thế giới hiện tượng, chúng ta thấy đường đi có vẻ mông
lung, hên xui, nhưng tại sao nó luôn luôn gặp lại tác giả. Thật ra trong vô
hình, luật Nghiệp Báo trong Bản Thể chi phối một cách không sơ hở.

Một tay buôn ma tuý bị bắt, bị kết án chung thân. Theo luật pháp, y đã nhận
lấy hậu quả của tội lỗi mình một cách thỏa đáng. Nhưng ảnh hưởng của nghiệp
chưa buông tha y. Sau khi chết y sinh vào một gia đình có cha mẹ là những kẻ
nghiện ngập ma túy nằm trong đường dây buôn lậu của y từ kiếp trước. Cha mẹ
y phạm tội rồi bị giam. Y trở thành kẻ lêu lỏng, sa vào ma tuý, đi cướp giật
và bị bắn chết. Chưa hết, nhiều đời sau nữa, cái nghiệp ma tuý vẫn đeo đuổi
y, y tiếp tục sinh vào những môi trường chung quanh nhiều người nghiện ngập.
Cái sa đọa mà y gieo rắc cho kẻ khác đã trở thành máng nhện quấn lấy y trong
nhiều kiếp luân hồi.

Như vậy cái bản án của luật pháp dành cho kẻ phạm tội không phản ảnh được
cái quả báo của luật Nghiệp Báo. Luật này có đường đi riêng mà luật pháp xã
hội chỉ là một khía cạnh nhỏ của nó. Kẻ vào tù chưa phải là đã trả xong mọi
món nợ trước kia.

Ví dụ một tay lừa đảo bị bắt đi tù. Những đời sau y luôn luôn rơi vào tình
trạng nghèo túng thiếu thốn và bị lừa gạt liên tục.

Trong suốt một cuộc đời, chúng ta đã tạo nên vô số nghiệp bằng ý nghĩ, lời
nói và việc làm. Cả mấy tỷ người cũng như vậy. Tất cả tạo nên một ảnh hưởng
của nghiệp lan đi khắp muời phương bốn hướng gieo xen chằng chịt lẫn nhau mà
không có cái nào lẫn lộn với cái nào. Nếu đưa vào máy tính để giải mã, có lẽ
đây là một bài tính cực kỳ thú vị và phức tạp. Khoa học đang dồn hết sức
mình để tìm hiểu cho hết mọi quy luật của không gian vật lý này. Các quy
luật ở đây có tính cách khách quan. Ý muốn của con người không thể làm thay
đổi các quy luật này. Như cỏ cây có khuynh hướng hướng về ánh sáng. Chúng ta
có thể chặt đứt ngọn cây, hoặc bẻ uốn ngọn cây đi vào bóng tối, nhưng rồi sẽ
có những chồi khác vươn ra ánh sáng. Chúng ta chỉ tác động một c�
�ch hình thức chứ kh

Các nhà khoa học đi tìm quy luật của Virus gây bệnh tật để tùy theo đó tìm
cách chữa trị. Nếu chưa nắm vững qui luật, sự chữa trị không hiệu quả, có
khi còn nguy hiểm. Một chất kích thích tố steroid từ ngoài đưa vào cơ thể
gây nên hưng phấn nhất thời, nhưng sẽ gây tác hại về sau.

Nguyên lý bảo toàn động lượng là cơ sở cho máy bay phản lực, theo đo,ù khi
hỏa tiễn phun ra phía sau một khối lượng vật chất với vận tốc lớn, thì bản
thân hỏa tiễn sẽ di chuyển về phía trước với một vận tốc tương ứng. Hiện nay
nguyên tắc này là cao nhất về phương pháp di chuyển của người Địa cầu. Còn
các đĩa bay thì có phương pháp khác rất lạ mà chúng ta chưa biết.

Các kính hiển vi với tia quét điện tử đã giúp con người đi vào thế giới vi
mô, có thể thấy được hình ảnh nguyên tử, hoạt động của tế bào, và từ đó, họ
biết rõ hơn những quy luật chưa được biết.

Con người chỉ có khám phá các quy luật của vũ trụ và tìm cách áp dụng có lợi
cho mình. Các quy luật này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người.
Chính vì tính khách quan này mà khoa học được đề cao. Người ta không dùng
quyền lực để thay đổi được sự thật của vũ trụ, quy luật của xã hội, người ta
không thể dùng các lý thuyết về tín ngưỡng, đảng phái… để che lấp chân lý.
Cuối cùng Khoa học sẽ khám phá, giải đáp tất cả và ai đi ngược với khoa học
sẽ bị đào thải không thương tiếc. Đã đến thời kỳ mà các nhà hoạt động tôn
giáo không được quyền thiếu kiến thức khoa học. Hầu hết các triết lý tôn
giáo đều có tuổi từ mấy nghìn năm trước. Các tín đồ đều tự mãn cho rằng tôn
giáo của mình là chân lý, dù thời gian có trôi mãi, khoa học có tiến
bộ đến đâu thì c

Quan niệm tự mãn, độc tôn, cố chấp này hoàn toàn bất lợi cho con người muốn
tìm chân lý tối thượng.

Con đường không có ích lợi cho kẻ không muốn đi. Ánh sáng không có ích lợi
cho kẻ không muốn nhìn thấy. Cũng vậy, chân lý không giúp gì được cho kẻ tự
chôn mình trong những niềm tin lạc hậu.

Nếu chúng ta hỏi các tín đồ của các tôn giáo, họ sẽ luôn luôn cho con đường
của họ là hơn hết. Ngay trong đạo Phật, mỗi hệ phái đều cho mình là cao hơn
hết và chê bai các hệ phái khác. Cuốn "Hành trình qua phương Đông" gần đây
đã nêu ra việc này rất rõ. Các tu sĩ để dành nhiều thì giờ đả kích nhau hơn
là lo tu hành thật sự.

Muốn tìm được chân lý đích thực, chúng ta phải cởi bỏ mọi thành kiến từ
trước. Đừng vì chấp ngã để rồi luôn luôn cho những cái gì liên hệ với mình
đều tốt đẹp cả như ý kiến của tôi, hệ phái của tôi, tôn giáo của tôi, chủ
thuyết của tôi… Chân lý không liên quan đến những cái tôi này.

Đức Phật dạy mọi người phải có tinh thần hoài nghi khi đi tìm lẽ thật. Không
nên tin bất cứ điều gì dù đó là do truyền thống để lại, do người khác truyền
đạt, do người khả kính nói ra, do ý riêng mình chấp nhận. Chúng ta phải biết
hoài nghi trong khiêm hạ. Hoài nghi tất cả kể cả ý nghĩ của chính mình.
Không nên hoài nghi ý nghĩ của người khác nhưng lại cả tin vào ý nghĩ của
mình.

Các nhà hoạt động tôn giáo trong thời đại khoa học tiến bộ hôm nay càng phải
biết hoài nghi hơn nữa. Những tư tưởng, những giáo lý được giảng dạy từ xưa
đến giờ có vẻ hợp lý, nhưng nếu được suy xét kỹ hơn,vẫn có thể bộc lộ nhiều
sai lầm lớn lao.

"Những gì giáo chủ tôi đã dạy, thầy tôi đã giữ gìn, là luôn luôn đúng". Tư
tưởng bảo thủ này không thích hợp cho xã hội loài người của thời đại hôm
nay.

Chân lý là sự khách quan không tùy thuộc vào ý muốn của mỗi người. Quá tin
vào ý nghĩ của cái tôi, chúng ta sẽ rời xa chân lý. Tính khách quan của vũ
trụ vật lý càng khiến chúng ta phải rời bỏ những thiên chấp chủ quan của
mình nếu muốn hiểu được sự thật.

Ai cũng nói mình đi tìm chân lý, sống với chân lý. Nhà khoa học nói như thế
và nhà đạo học cũng nói như thế. Nếu cùng đi tìm chân lý thì ắt phải có ngày
gặp nhau. Nhà đạo học phải có tinh thần, có hiểu biết về khoa học, cũng như
nhà khoa học phải biết những vấn đề của đạo giáo. Đôi khi tinh thần của tôn
giáo gợi ý nhiều vấn đề cho khoa học. Ví dụ như đạo Phật đã từng nói đến vô
số thế giới trong vũ trụ. Và ngược lại khoa học cũng giúp cho nhà hoạt động
tôn giáo bớt đi vào mê tín, cuồng tín. Nhiều người đã e ngại về sau này, sự
bạo động không bắt nguồn từ các tổ chức thuần túy chính trị mà lại bắt nguồn
từ các tôn giáo có khuynh hướng cuồng tín.

Tóm lại không gian vật lý này có tính khách quan và tương đối. Những qui
luật của nó không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Đồng thời tính chất
của không gian, thời gian, khối lượng…bị thay đổi theo nhiều điều kiện.
Trong không gian này con người tạo nghiệp và nhận lấy quả báo. Những nghiệp
do con người tạo ra đã gây ảnh hưởng vào trong cuộc đời và ảnh hưởng đó lan
đi mãi cho đến khi nó gặp lại tác giả đã tạo ra nó và đem đến cho tác giả
niềm vui hay nỗi khổ một cách tương xứng.

Tuy nhiên không gian này không phải là duy nhất trong vũ trụ. Nó chỉ là hiện
tượng của Bản Thể và mọi sự vận động sinh hóa của nó đều xuất phát từ những
quy luật bí mật từ Bản Thể. Ngay cả một ảnh hưởng của nghiệp đi lang thang
trong cuộc đời cũng không phải tự phát ngẫu nhiên, nó luôn luôn chịu sự chi
phối của Nghiệp Báo từ Bản Thể.

CHƯƠNG 3
KHÔNG GIAN TÂM LINH

Câu chuyện này được hòa thượng Thiền Tâm kể và chúng tôi đã từng thuật lại
trong cuốn "Luận về Nhân Quả".

Có lũ trẻ chăn trâu, lùa trâu về ngang qua bờ đất. Chợt một đứa trong đám
ngã lăn ra giãy dụa la hét thảm thiết. Những đứa trẻ khác sợ hãi chạy đến
giữ tay, giữ chân nó lại. Nhưng nó vẫn gào thét dữ dội. Qua một lúc lâu thì
nó mới thôi làm dữ, nhưng khắp người nó nhiều vết cháy xém. Khi được hỏi
nguyên do, nó kể rằng khi đi đến bờ đất, chợt nó thấy hiện ra một cổng thành
lớn bên trong lửa cháy rừng rực. Nó bỗng cảm thấy kinh hoàng tột độ. Nhưng
liền khi đó như có sức mạnh vô hình cuốn hút nó bay vào bên trong để bị
thiêu đốt đau đớn vô cùng. Và bây giờ thì thành lửa đã biến mất, mọi chuyện
trở lại bình thường với cái bờ đất, cánh đồng, đàn trâu và lũ bạn, nhưng da
thịt còn vết cháy xém và nỗi sợ hãi còn để lại dư âm.

Cái thành lửa có thật hay chỉ là ảo tưởng ? Nếu không thật chỉ là ảo tưởng
của thằng bé thì tại sao vết cháy xém xuất hiện ? Nếu thật thì tại sao những
đứa bạn của thằng bé không thấy ?

Đứng trên lập trường của không gian vật lý, chúng ta sẽ không bao giờ đủ sức
giải thích hiện tượng kỳ lạ này cũng như vô số hiện tượng kỳ lạ khác đã và
đang xảy ra khắp nơi.

Thật ra không gian vật lý không phải là cõi không gian duy nhất của vũ trụ.
Cao hơn không gian vật lý còn có không gian tâm linh với những quy luật hoàn
toàn mới lạ mà tai mắt con người không thể biết được. Hầu hết các tôn giáo
đều chú trọng vào thế giới tâm linh này với niềm tin và thêm thắt các phỏng
đoán, các tưởng tượng vô cùng hấp dẫn.

Khoa học có thể đặt chân đến mặt trăng, nhưng chưa có thể đặt chân đến thế
giới tâm linh này. Vì thế đây cũng là môi trường hoạt động tự do cho các nhà
thần bí. Họ tô điểm đủ chuyện thần thoại vào không gian này để thu hút tín
đồ với một lý lẽ đơn giản: Khoa học không thể biết được!

Điều may mắn cho chúng ta hôm nay là khoa học đã nhìn nhận sự thật hữu của
các hiện tượng ngoại cảm như thần giao cách cảm, thôi miên, tiên tri, chữa
bệnh bằng sức mạnh tinh thần, khinh thân… và đang tìm chìa khóa để đi vào
tìm hiểu sâu xa các vấn đề này. Sự nghiên cứu khách quan của khoa học sẽ trả
lại cho thế giới tâm linh đúng với bản chất của nó. Không tô điểm cho nó quá
sức cầu kỳ thần bí, cũng không phủ nhận nó một cách võ đoán cạn cợt.

Các sinh vật, gồm cả động vật và thực vật đều có bản năng sinh tồn. Bản năng
này là khuynh hướng tự duy trì sự sống của chính mình và truyền lại nòi
giống của mình lâu dài về sau. Cây có khuynh hướng mọc rễ đi tìm nguồn thức
ăn trong lòng đất như nước, chất đạm, chất khoáng… Lá vươn về ánh sáng để
thực hiện sự quang hợp, hấp thải các thành phần trong không khí… Rồi chúng
hoặc kết trái rơi hạt để cây con mọc lên, hoặc hạt bay theo gió đến vùng đất
khác, hoặc rễ luồn trong đất đi xa để mọc nên cây mới.

Các loài động vật thì không bám rễ, đứng một chỗ mà linh động hơn, di chuyển
từ nơi này sang nơi khác để tìm thức ăn. Chúng chia thành hai giống cái và
đực. Sự phối hợp giữa hai giống này sản sinh ra các loài con để nối tiếp nòi
giống. Một vài động vật lưỡng tính thì cũng có cách sinh sản thích hợp.

Khác với các máy móc xe cộ vô tri vô giác không có bản năng sinh tồn, phải
do con người điều khiển mới hoạt động, còn các sinh vật thì tự có một khuynh
hướng mãnh liệt duy trì sự sống. Khuynh hướng đó ẩn dấu trong các gen của tế
bào, cụ thể là chuỗi DNA hình xoắn (Desoxyribo Nucleic Acid) Các nhà khoa
học khẳng định rằng không có hai sinh vật hoàn toàn giống nhau về phân tử
DNA. Các nhà tội phạm học đã dựa vào tính chất này để truy tìm thủ phạm một
cách chính xác khi chỉ có một mẫu tóc, ít máu, da, tinh dịch còn sót lại nơi
hiện trường.

Các gen có một cấu trúc phân tử cực kỳ phức tạp mà khoa học vẫn đang lần mò
tìm hiểu dần dần. Chính các gen này qui định một sinh vật sẽ phát triển như
thế nào, sẽ có một hình dáng tính tình sức khoẻ sẽ ra sao. Người ta còn mơ
ước việc xen vào thay đổi các gen đó để uốn nắn sự phát triển của sinh vật
theo ý muốn. Họ sẽ tạo ra các con người hoàn hảo hơn.

Hiện nay một số nhà sinh học đã cấy gen người vào gia súc để các con vật này
tiết ra các dược chất hiếm trong sữa. Tinh luyện sữa người ta thu được các
dược chất quan trọng, đắt tiền, cần thiết trong y học. Người ta còn cấy gen
để tạo ra cây có thân vuông thay vì tròn để khi xẻ gỗ đỡ phải bỏ phí ván
bìa. Những bệnh tật có liên quan đến gen sẽ được chỉnh lại để chữa lành.

Bí mật của sự sống đang dần dần hiện rõ trước sự thành tựu của khoa học.
Bản năng sinh tồn cũng xuất phát từ các gen bé nhỏ nhưng có cấu trúc phức
tạp này. Một điều vô cùng quan trọng nữa bị bỏ quên là chính cái bản năng
sinh tồn của sinh vật đã tạo thành vùng không gian tâm linh cho chính sinh
vật đó.
Bất cứ sinh vật nào, dù là động vật hay thực vật, hễ có bản năng sinh tồn
đều tự tạo thành một vùng không gian tâm linh chung quanh mình. Vùng không
gian tâm linh này đang được các nhà khoa học gọi là trường của sinh học
(bio-field). Khoa học biết rõ về từ trường, chưa rõ lắm về trọng trường,về
môi trường chân không, trường hấp dẫn (trường hấp dẫn ở khoảng cách gần thì
thành trọng trường, ở khoảng cách xa gọi là trường hấp dẫn) môi trường lan
truyền âm thanh, ánh sáng. Nhưng còn vô cùng xa lạ với trường không gian tâm
linh xuất phát từ bản năng sinh tồn này. Chính trường không gian tâm linh là
viễn ảnh tươi đẹp cho nền văn minh của con người ở tương lai. Nhiều nhà khoa
học đã cảm nhận rằng nền văn minh tương lai của con người không phải là nền
văn minh vật l
ý mà chính là nền v

Chúng tôi dùng từ “vùng không gian tâm linh “ xuất phát từ bản năng sinh tồn
để chỉ một phạm trù khác hẳn với cõi giới siêu hình .

Theo các tôn giáo, ngoài không gian vật lý này, vũ trụ còn có cõi giới siêu
hình thiên đường, địa ngục… các cõi giới siêu hình đó tồn tại một cách
khách quan giống như không gian vật lý chứa đựng nhiều sinh vật cao cấp như
các vị trời, các vị thần linh, các loài qủy sứ, yêu ma… Có khi có cả lâu
đài, cung điện, hoa cỏ. Ở đây chúng ta chưa đề cập đến loại hình này, chỉ
nói đến một vùng không gian tâm linh hoàn toàn chủ quan của mỗi sinh vật
đang được các nhà khoa học quan tâm và gọi là Trường của Sinh học. Chính cái
Không Gian Tâm Linh chủ quan này mới là cửa ngõ để tiếp xúc với các cõi giới
vô hình khác trong vũ trụ chứ không phải bằng các phương tiện vật lý thông
thường.

Khác với không gian vật lý tồn tại một cách khách quan với những quy luật tự
nhiên vận động không phụ thuộc vào ý muốn của con người, ở đây không gian
tâm linh có tính cực kỳ chủ quan, hoạt động lệ thuộc vào mỗi người (hay nói
rộng hơn là mỗi sinh vật) với những quy luật lạ lùng đối với các quy luật
vật lý hiện có. Vùng không gian này có hào quang riêng của nó.

Năm 1939, S.D.Kirlian kỹ sư điện tử tài ba ở thành phố Krasnoda của Liên Xô,
phát minh máy chụp hào quang.

Một hôm trong một bệnh viện, anh điều khiển một máy phát tần số cao. Bỗng
nhiên anh nhận xét rằng sự phóng điện giữa lòng bàn tay anh và điện cực của
máy phát hoàn toàn không giống sự phóng điện giữa cườm tay và điện cực đó.
Có cái gì sai biệt về điện thế giữa hai vùng cơ thể chỉ cách nhau không đầy
một tấc. Tại sao? Đó là cái gì? Tốt nhất là chụp ghi lại hiện tượng lạ
thường đó. Nhưng làm thế nào bây giờ? Vì như thường lệ nếu chiếu ánh sáng
bình thường vào cho sáng để chụp thì không còn thấy rõ tia điện phóng ra
nữa!

Sau một thời gian loay hoay, Kirlian quyết định chụp hiện tượng phóng điện
đó bằng một cách khác, không cần dùng máy ảnh thông thường nữa.

Kirlian sáng tạo một thiết bị mới để chụp như sau: Trên bàn đặt một tấm
Ébonic dùng để cách điện. Trên tấm Ébonic đó là một điện cực bằng kim loại
và trên tấm điện cực đó là một tấm kính ảnh.

Kirlian đứng trên một tấm thảm con để cách điện khỏi nền nhà, rồi nối điện
cực thứ hai vào lưng bàn tay. Còn lòng bàn tay ông ép chặt vào tấm kính ảnh.
Ông gọi anh thợ trẻ đến giúp, bảo anh thợ đóng cầu giao để dòng điện cao tần
chạy qua bàn tay ông. Người thợ trẻ hoảng sợ, nhưng rồi cũng đóng cầu chì và
sau đó tắt mạch.

Họ rửa tấm kính ảnh: Họ thấy một hình ảnh tuy không rõ nét lắm, nhưng dù sao
cũng có bóng dáng của bàn tay và trên các ngón tay hiện rõ các lóng xương
trắng. Tất nhiên đây không phải là bức ảnh Renghen. Đây là một cái hoàn toàn
mới, một hình ảnh của đối tượng sinh học trong một điện trường tần số cao.
Một chiếc lá đặt trong máy Kirlian hiện ra như cả một thế giới điểm sáng.
Xung quanh, chiếc lá người ta thấy những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da
cam, phát ra từ trung tâm và đi xa theo những kinh xác định. Một ngón tay
hiện ra như cả một bức tranh, một bản đồ chi tiết gồm các điểm, đường, các
hố ánh sáng, các hố lửa.

Sau đó Kirlian và vợ ông đã nghiên cứu một cái máy tối tân hơn và đã chụp
được hào quang của mọi sinh vật. Hào quang này bước đầu cho biết về tình
trạng sức khỏe của các sinh vật. Sau đó hào quang còn cho tất cả tâm trạng
của mọi sinh vật. Khi sức khỏe hoặc tâm trạng thay đổi, hào quang bị thay
đổi theo.
Các nhà đạo học Đông Phương đã nói nhiều về hào quang của cơ thể. Theo họ,
các vị Thánh có hào quang chói sáng rất xa, còn các kẻ phàm tục có một hào
quang tối tăm nhỏ bé. Bây giờ qua phát minh của Kirlian, hào quang này đang
được thấy bằng mắt thường của mọi người. Vùng không gian tâm linh đang được
vén bức màn bí mật một ít. (Xem thêm ở “Các Lạt Ma hóa thân")

Còn ứng dụng của Trường không gian tâm linh này thì sự thật đã làm kinh ngạc
mọi người. Nó có tính chủ quan triệt để. Với người có năng lực tâm linh mạnh
(trường không gian tâm linh rộng hơn, có mật độ dày đặc hơn), có thể dùng ý
muốn của mình thực hiện một hành động phi thường phá vỡ quy luật vật lý nào
giờ.

Uri Geller (gốc Do Thái) với ý muốn của mình, ông làm cho các vật bằng kim
loại cong lại, làm cho đồng hồ Big Ben đứng lại chỉ bằng cách “nhìn” chúng
mà thôi.
Ermolaiev (Liên Xô) có thể bay cách mặt đất 60cm. Hoặc ông đưa tay về phía
người khác, không chạm đến họ, làm cho người đó bay lên khỏi mặt đất.

Djuna (Grudia, Liên Xô) có thể dùng đôi bàn tay để chẩn và chữa bệnh. Kết
quả làm giới y học thán phục. Năm 1984 bà chấp nhận sự thí nghiệm của một
ban nghiên cứu của Mỹ và Liên Xô và chứng tỏ bà có khả năng nhìn thấy cảnh
vật tại California (Mỹ) từ Liên Xô.

Anh Thadi-Ichu người Nhật, có cặp mắt tuyệt vời. Khi tập trung nhìn sẽ phát
sáng một năng lượng siêu tự nhiên có thể làm nát vụn những hòn đá nhỏ.

Edgar Cayce (Kentucky, Mỹ) có thể chẩn bệnh, hướng dẫn dùng thuốc và cho
biết tiền kiếp của người bệnh. Có khi ông ra đơn là một loại thuốc còn ở
trong phòng thí nghiệm. Ông thường nói đến Nghiệp Báo, chính một hành vi bất
thiện ở kiếp trước đã tạo thành những chứng bệnh hiện tại, và khuyên bệnh
nhân làm phước thiện kết hợp với thuốc để chữa bệnh.

Các nước lớn như Mỹ, Liên Xô… đều đang lặng lẽ và ráo riết nghiên cứu về
thần giao cách cảm, sự liên lạc thông tin từ một khoảng cách xa, giữa hai
người, không cần một phương tiện máy móc nào, và đã có nhiều kết quả nhất
định. Họ cũng sử dụng các nhà ngoại cảm trong lĩnh vực tình báo, an ninh để
phát hiện ra gián điệp và tội phạm.

Có những truyền thuyết về các nhà luyện khí công Trung Hoa có thể lướt trên
mặt nước; các Lạt Ma Tây Tạng có thể bay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi kia.
Đối với các tôn giáo Đông Phương, năng lực tâm linh của con người khi đạt
đạo là điều hiển nhiên và được gọi là thần thông.

Bởi vì tính cách vô cùng chủ quan của không gian tâm linh nên các nhà khoa
học đã gặp khó khăn không ít khi muốn nghiên cứu vấn đề này theo phương pháp
khách quan của không gian vật lý.

Khi một người có năng lực tâm linh mạnh mẽ, họ sẽ sử dụng nó một cách đa
dạng theo ý muốn chủ quan của mình. Họ tập trung tinh thần để đoán biết
chuyện từ xa, gửi đi một thông điệp, chữa bệnh, khinh thân, tiên tri, phân
thân, thôi miên… Nơi ý muốn chủ quan này, họ vượt qua các quy luật không
gian vật lý. Đây là điều cực kỳ hấp dẫn cho giới khoa học. Nếu mọi quy luật
của tâm linh được nắm bắt và áp dụng, con người sẽ tiến rất xa.

Nhiều nhà khoa học đã nghi ngờ rằng phương pháp di chuyển của các UFO (đĩa
bay) chính là sự áp dụng được năng lực tâm linh vào máy móc. Các UFO coi
thường sức hút của quả đất, coi thường quán tính. Nó bay là là chậm chậm rồi
đột ngột bằng tốc độ cực nhanh, hoặc tàng hình biến mất. Thêm nữa, để vượt
khoảng cách mất trăm ngàn năm ánh sáng ắt hẳn các UFO phải có cách di chuyển
vượt hơn tốc độ ánh sáng nhiều lần.

Vận tốc ánh sáng là 299.992 km/giây. Theo Einstein, trong không gian vật lý
này, vận tốc ánh sáng là tuyệt đối. Nếu một vật thể nào bay với vận tốc này,
nó sẽ bị triệt tiêu kích thước.

Tuy nhiên, với không gian tâm linh, quy luật vật lý tương đối của Einstein
vẫn bị phá vỡ. Sử dụng năng lực tâm linh cực kỳ mạnh vào máy móc, các UFO có
thể đạt được vận tốc hơn vận tốc ánh sáng nhiều lần. Nếu cần, nó có thểù
tàng hình trong khi di chuyển. Người viết kịch bản phim “Chiến tranh giữa
các vì sao” đã gọi hiện tượng này là sự đi vào “không gian rút gọn”.

Nhưng tại sao máy móc lại có được năng lực tâm linh? Như chúng ta đã biết,
chính bản năng sinh tồn đã tạo ra vùng không gian tâm linh chung quanh cá
thể đó. Mà bản năng sinh tồn phát xuất từ cấu trúc tế bào, trong nhân có
phân tử DNA làm gène di truyền.

Có thể với phương tiện cực kỳ tiến bộ, họ tạo ra các mảnh vật chất lớn,
trong đó, từng nguyên tử được sắp xếp chặt chẽ phỏng theo cấu trúc của tế
bào có chuỗi phân tử DNA hình xoắn. Mảnh vật chất này trở thành một cơ thể
sống có bản năng sinh tồn khi được cung cấp một dòng điện. Từng nguyên tử
phối hợp hoạt động một cách hoàn chỉnh. Thế là một vùng không giam tâm linh
nhân tạo xuất hiện chung quanh mảnh vật chất đó. Bây giờ, với ý muốn của
mình, người ta điều khiển mảnh vật chất di chuyển.

Hiện nay, khoa học của chúng ta cũng bắt đầu đi vào “thời kỳ nguyên tử”, có
thể trông thấy và đang tìm cách sắp xếp nguyên tử.

Khoa học đã áp dụng phỏng sinh học khá nhiều. Họ bắt chước da cá heo để tạo
nên vỏ tàu ngầm, sóng siêu âm của dơi để tạo ra radar, khả năng tích điện
của loài cá đuối điện… Nhưng đỉnh cao nhất của môn phỏng sinh học là tạo
ra được một vật thể lớn, sắp xếp từng nguyên tử trở thành một cơ thể sống có
bản năng sinh tồn khi có một dòng điện chạy qua và không gian tâm linh nhân
tạo xuất hiện. Chúng ta hãy chờ ngày đó, ngày Địa cầu đuổi kịp nền văn minh
của các hành tinh khác.

Không gian tâm linh có hào quang. Đĩa bay cũng có hào quang sáng lòa. Phải
chăng một trường năng lực tâm linh quá mạnh, quá đậm đặc, hào quang của đĩa
bay hiện ra khiến mắt thường vẫn trông thấy được, trong khi nơi sinh vật,
hào quang này quá yếu, đòi hỏi phải những nhà ngoại cảm dị thường mới thấy
được?

Rồi vùng không gian tâm linh của động vật và thực vật cũng khác nhau. Động
vật có não bộ, có các hoạt động tâm lý phức tạp, biến động. Não bộ có các tế
bào não, tế bào thần kinh khác hơn các tế bào của bắp thịt. Vì thế, bản năng
sinh tồn của động vật mạnh hơn hẳn thực vật và không gian tâm linh của động
vật cũng hơn hẳn thực vật.

Vào năm 1966, ông Backster, nhà bác học chế tạo ra bộ máy điện tử dò nói
dối. Nhờ bộ máy đó mà ông trở thành huấn luyện viên cho sở cảnh sát Mỹ về
phương pháp sử dụng máy dò nói dối.

Trong một đêm thức trắng để huấn luyện, tâm trí quá mệt nhọc đưa ông đến vô
tình cắm hai cọc điện của một điện kế tinh vi vào hai đầu của một chiếc lá
cây trong phòng. Thứ lá cây đó lớn và dày như lá đa. Cây đang rất khô. Ông
tự hỏi xem nếu gốc cây được tưới nước, nước sẽ chuyển lên thân, cành, lá và
hoa thì sẽ có hiện tượng gì xảy ra. Điện kế sẽ đo hiện tượng đó.

Nước dần dần lên thân và lá. Nhưng không, kim điện kế vẫn đứng im, không có
sự phản ứng nào cả. Đáng lẽ thì kim phải nhích lên, vì có thêm nước thì sức
dẫn điện phải tăng thêm.

Tự nhiên ông Backster nghĩ rằng, nếu con người hay con vật có một sự xúc
động, một sự sợ hãi thì kim nhẩy, vậy thì tại sao ông không làm một cái gì
khác thường? Nhà bác học nghĩ đến việc lấy lửa đốt thử lá cây kia xem sao.
Nhưng mới nghĩ như vậy và chưa hề làm một cử chỉ nào để cầm lấy hộp quẹt thì
ông đã vô cùng kinh ngạc khi thấy kim điện kế nhích một cái.

Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! Chẳng lẽ cái lá cây đọc được tư tưởng của
ông mà biểu lộ phản ứng sợ hãi của nó. Ông Backster quyết định đốt chiếc lá
thật. Ông ta bèn đứng dậy để lấy quẹt, tức thì điện kế nhảy một cái nữa.
Không do dự gì, ông ta châm quẹt để nhất quyết đốt chiếc lá, kim điện kế lại
nhảy tiếp một lần nữa.Nhưng ông không đốt lá. Lần sau, ông ta cầm lấy quẹt
và giả bộ như sắp đốt, nhưng trong óc đã tự nhủ trước là không đốt, thì điện
kế không nhảy. Rồi ông nhất quyết đốt thật, thế là điện kế lại nhảy một cái
mạnh. Lúc đó, trong phòng lặng gió và ông Backster không có đụng tới cây
cũng không có đụng tới máy.

Vậy có thể kết luận rằng: Cây đã đọc được tư tưởng người. Backster, ngay lúc
đó reo lên và đã có ý đi báo với mọi người rằng cây cỏ có một năng khiếu lạ
thường. Chúng biết tư tưởng người khác, tức là chúng biết nghĩ, chúng có tâm
hồn. Nhưng ông ta kịp dừng lại. Thái độ đúng của nhà khoa học là phải nghiên
cứu đầy đủ để không có kết luận sai lầm. Và ông quyết định phát triển nghiên
cứu khoa học của ông sang các loài cây khác.

Ông tập hợp các cộng sự viên lại và sử dụng 25 loại cây khác nhau trong cuộc
nghiện cứu, thí nghiệm vào lá như: lá xà lách, lá cải, vào củ và quả như củ
hành, quả cam, trái chuối… Những cuộc nghiên cứu theo đúng phương pháp
khoa học cho phép khẳng định rằng: Cây có phản ứng thật sự khi chúng gặp sự
nguy hiểm.

Đó là một hình thức đặc biệt của một thứ giác quan vô hình như năng khiếu
linh thị, thần nhãn của một vài người. Nhưng đây là những danh từ mơ hồ.
Giác quan đặc biệt có nghĩa là một năng khiếu trên những giác quan. Nhưng
cây cỏ đâu có mắt, tai, mũi, miệng… Chúng không có óc, không có thần kinh
hệ, thì cái biết của chúng hẳn là phải khác.

Như thế có thể cho rằng các giác quan con người chỉ là những giác quan sơ
đẳng, chỉ cảm giác trong một phạm vi rất là hạn chế, còn cây cỏ lại có thứ
giác quan khác. Suy nghĩ như vậy, càng ngày Bachster càng mở rộng cơ sở
nghiên cứu và càng khám phá những mới lạ.

Những máy móc tối tân hơn được ông thu nhận, nhất là những máy ghi các nhịp
luồng điện. Và cuộc nghiên cứu được tiến hành với kế hoạch rất tinh vi, được
ghi chép đầy đủ. Các tài liệu được thu thậpï và xếp loại cẩn thận.

Từng mảnh lá tách rời cũng có phản ứng như nêu ở trên (người ta gọi là phản
ứng Backster). Lá xé ra từng mảnh thì từng mảnh cũng có phản ứng đó. Lạ lùng
hơn, cây cỏ phản ứng không phải chỉ trước những mối nguy do con người tạo ra
bằng ý định mà cả trước một mối nghi bất thường không tạo ra bằng ý định.
Một con chó bất thần bước vào phòng, một người vốn ghét cây cỏ bước vào,
cũng làm cho điện kế nhảy. Những cử động của một con nhện tiến đến cây cũng
gây ra phản ứng cho cây. Ông Backster đã làm thí nghiệm và chứng minh điều
đó trước các sinh viên đại học Yale (Mỹ). Trong trường hợp trên một khi có
người tới đuổi nhện và ngay trước khi nhện chạy đi, kim điện kế đã hạ xuống.
Y như là trước khi nhện chạy thì quyết định rút lui của nhện đ�
� được cây tiếp nh

Một cuộc thí nghiệm chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây để ý canh chừng
nhau (sợ bị quấy rầy) nhưng khi có một động vật tới gần, mối nguy gần hơn,
cây cỏ quay sang canh chừng động vật. Những cuộc nghiên cứu còn dài và còn
nhiều khám phá lạ lùng hơn nữa.

Ông Backster còn khám phá ra cách tự vệ của cây. Khi ta ăn lá rau nó phản
ứng thế nào đây. Cây còn có trí nhớ, nhận biết những kẻ chuyên phá hoại
chúng. Chúng còn biết thương yêu người chăm sóc và biết sung sướng khi người
đó trở về.

Hiện đã có 7000 nhà bác học yêu cầu ông Backster thông báo cho biết kết quả
nghiên cứu kèm theo các tài liệu khoa học. Mọi nhà thảo mộc học đều say sưa
nghiên cứu những khám phá dị thường này, và mọi người sẽ thấy yêu loài cây
cỏ hơn (Hoàng Vũ sưu tầm, đăng trên báo Thế giới kỳ lạ số 5).
Bà Djuna khẳng định hào quang tâm linh mỗi loại cây cỏ khác nhau mà bà trông
thấy được.

Như vậy phản ứng tâm linh của thực vật có tính cách trực giác, biết trực
tiếp, không cần các biểu hiện trung gian, thẳng vào ý thức của đối tượng
chung quanh, rất giống với khả năng đọc ý nghĩ kẻ khác của những nhà ngoại
cảm tài ba. Phản ứng tâm linh này chứng tỏ sự hiện diện của vùng không gian
tâm linh chung quanh cây cỏ.

Những loài thảo mộc lâu năm có năng lực sinh học mạnh có thể sử dụng làm
thuốc tăng cường sức khỏe cho con người. Huyền thoại về củ nhân sâm làm cho
giới y học lao vào nghiên cứu phân chất những muốn tìm ra một hoạt chất kỳ
lạ nào đó. Tiếc thay, họ không tìm thấy hoạt chất đặc biệt nào trong củ nhân
sâm. Nhưng rõ ràng người dùng nhân sâm vẫn được cải thiện sức khỏe. Hiệu quả
này không phải do hóa chất, mà chính là do năng lực sinh học (tâm linh) của
củ nhân sâm.

Một số loại cây ngãi có năng lực sinh học rất mạnh được các thầy pháp nuôi
trồng. Họ tập trung tinh thần vào cây ngãi với những lời nguyện có khi thiện
có khi ác. Khi muốn làm hại ai, họ dùng tư tưởng của họ, cộng với năng lực
sinh học của cây ngãi, chú nguyện cho kẻ thù phải đau đớn. Dù cách rất xa,
kẻ kia ngã lăn ra vô cùng đau đớn. Năng lực sinh học (tâm linh) có thể gây
tác dụng vượt không gian và thời gian.

Tâm linh của cây cỏ phát xuất từ bản năng sinh tồn, còn tâm thức của loài
người có cả hoạt động tâm lý phức tạp. Con người là đỉnh cao của hoạt động
tâm lý. Tâm lý của con người được chia ra làm hai phần: ý thức và vô thức. Ý
thức là bề mặt nổi nhỏ bé của cả một khối băng đảo to lớn. Chính phần chìm
sâu vô thức mới choán cả một khối lượng hoạt động mãnh liệt .

Chính vô thức đã ghi nhớ, sáng tạo, linh cảm và phát huy mọi thần lực kỳ
diệu của con người. Đôi khi chúng ta ghép cả bản năng sinh tồn và hoạt động
của vô thức làm một.

Hệ thần kinh thực vật thuộc về vô thức, nó điều khiển các hoạt động của nội
tạng, làm cho tim đập, mạch nhảy, các tuyến tiết hormone một cách tự động.
Ý thức tuy có vẻ linh hoạt; có thể suy nghĩ, lý luận, phân biệt và nhận
biết, nhưng nó không thể biết trực tiếp như vô thức (trực giác).

Cây cỏ còn có thể biết trực tiếp ý nghĩ của người với không gian tâm linh
đơn giản của nó thì ắt hẳn con người sẽ phải nhận biết nhiều hơn như thế vì
không gian tâm linh của con người cao cấp hơn. Nhưng tại sao dường như chúng
ta không thể biết được điều gì ngoài tai mắt ?

Tại sao chúng ta không thể biết bản chất tư tưởng của người đối diện, của
một ai ở cách xa?

Chính vì ý thức cạn cợt đã che lấp tất cả! Chúng ta quen sử dụng ý thức mà ý
thức thì lệ thuộc vào giác quan thế nên chúng ta không nghe được vô thức đã
cảm nhận được điều gì.

Hãy lắng nghe vô thức !
Chúng ta hãy thực hành theo sự khuyên bảo của các nhà đạo học Đông Phương,
các thiền sư trong đạo Phật, các linh mục có kinh nghiệm tĩnh tâm sâu thẳm
và hãy buông xả ý thức để đi sâu vào lắng nghe vô thức. Khi ý thức suy nghĩ
dừng lắng thì trực giác của vô thức sẽ xuất hiện. Khả năng của vô thức với
không gian tâm linh vĩ đại sẽ mở ra muôn điều kỳ diệu mà chúng ta chưa bao
giờ ngờ được. Những nhà ngoại cảm nổi tiếng trên thế giới đều có khả năng
định tâm để sử dụng năng lực tâm linh tuyệt vời này.

Một số loài động vật mà chúng ta cho là thông minh như cá heo, chó và loài
chim… Thật ra chúng không có ý thức lý luận lanh lợi như người và khỉ.
Hầu hết chúng sử dụng trực giác. Những loài khác như rắn, rùa, mèo, cọp…
cũng nhận biết được ý định, tâm tính của các động vật khác bằng tâm linh vô
thức. Nhưng đôi khi chúng phản ứng yếu ớt không rõ rệt, hoặc chúng cũng bị ý
thức cản trở.

Tính chất của trường không gian tâm linh này cực kỳ chủ quan. Nó phát huy
tác dụng theo ý muốn của chủ thể. Chủ thể muốn cái gì, nó làm theo cái đó.
Chúng ta muốn biết ý nghĩ người khác, lập tức năng lực tâm linh biến thành
khả năng thông tin tiếp nhận tư tưởng. Chúng ta muốn người nhẹ đi (khinh
thân) lập tức năng lực tâm linh biến thành khả năng hoá giải khối lượng (chứ
không chống lại trọng lực). Chúng ta muốn chữa bệnh cho người khác, lập tức
năng lực tâm linh biến thành khả năng điều chỉnh cơ thể. Chúng ta muốn có
một sức nóng nơi lòng bàn tay, lập tức năng lực tâm linh biến thành khả năng
tạo nhiệt cục bộ… Vô số tác dụng của khả năng tâm linh liên hệ trực tiếp
với ý muốn chủ quan của con người. Các nhà khoa học quen với lối nghiên cứu
khách quan củ
a không gian vật lý n

Mặc dù, so với không gian vật lý thì không gian tâm linh có vẻ cao cấp hơn,
kỳ diệu hơn, nhưng nó vẫn chịu sự chi phối của định luật Nghiệp Báo.

Những nhà lãnh tụ thiên tài, khi phước còn sung mãn, thường có khả năng đoán
từ xa ý định của kẻ địch để phòng thủ và phản công. Khổng Minh là một điển
hình tiêu biểu. Dường như ông đoán được hầu hết hành động của đối phương. Họ
còn có khả năng đánh giá năng lực và lòng trung thành của người dưới. Trực
giác này giúp họ thành công trong việc củng cố quyền lực chính trị. Đến khi
phước đã cạn, trực giác giảm sút, họ phán đoán sai và cuối cùng bị sụp đổ.

Những doanh nhân cũng vậy, trực giác giúp họ tiên liệu những biến động của
thị trường, từ đó vạch ra kế hoạch đầu tư chính xác. Bên cạnh sự trợ giúp
của các nhà chuyên môn, của máy tính, họ vẫn có sự phán đoán riêng bằng trực
giác.
Ngoài ra, do phước đời trước, những người lãnh đạo có cái uy lực vô hình làm
cho mọi người nể phục vâng lời. Cái uy lực này cũng là năng lực của tâm
linh. Đôi mắt họ sáng, nhìn xuyên suốt người đối diện và như có sự thôi miên
tự nhiên, làm cho kẻ dưới bị khuất phục tự bao giờ. Các nhà độc tài, các bạo
chúa thì uy lực dữ dằn, mạnh mẽ. Các giáo chủ chân chính như Đức Phật, chúa
Jésus, Mahomet (Xem “Lịch sử văn minh Ả rập” của Will Durant) có cái nhìn từ
ái thăm thẳm làm cho mọi người xúc động và dạt dào niềm kính mến. Đến gần
các bậc chân sư, chúng ta cảm nghe một cái bình an tươi mát vô hình lan tỏa
chung quanh làm chúng ta dễ chịu. Krishnamurti cũng có cái không gian bình
an như thế được nhiều người cảm nhận.

Những nhà ngoại cảm tài ba đều là những người tu thiền tập định từ kiếp
trước và hướng tâm về thần thông. Một nhà Yogi ở Hy Mã Lạp Sơn từng đạt định
và hay dùng năng lực tâm linh để chữa bệnh cho dân làng. Đời sau sinh ở Liên
Xô, vị này tự nhiên xuất hiện khả năng chữa bệnh bằng năng lực sinh học. Một
nhà thôi miên từng luyện đôi mắt tràn đầy sức mạnh với nội tâm định tĩnh
vững chắc. Đời sau sinh qua Anh, vị này tự nhiên có đôi mắt kỳ lạ, có thể di
chuyển đồ vật bằng đôi mắt nhìn từ xa.

Tuy nhiên cũng có trường hợp kết quả không xuất hiện mà bị che lấp bởi một
nghiệp khác. Ví dụ, một nhà Yogi có khả năng đi trên mặt nước. Vị này thường
khoe khoang tự mãn và chê bai những ai không đạt được thành quả như mình.
Đời sau, vị này không còn khả năng khinh thân nữa. Nghiệp tự mãn và chê bai
đã chận đứng kết quả tu tập.

Nhiều người đặt vấn đề rằng nếu quả thực bệnh hoạn có thể được chữa bằng
năng lực tâm linh, thì y học hiện đại đâu còn cần thiết nữa, nhà ngoại cảm
đã đảm đương từ việc chẩn đoán và chữa trị cả rồi!

Thật ra, từ trong Bản Thể Tuyệt Đối, nghiệp vẫn âm thầm chi phối tất cả,
không phải ai cũng có cơ may gặp được nhà ngoại cảm tài ba để được chữa trị.
Chỉ những người có phước duyên mới gặp được cơ hội này. Phước duyên gì đã
khiến cho chúng ta được chữa trị bằng năng lực tâm linh, trong khi những
người khác phải nhận chữa trị bằng hóa dược, giải phẫu?

Trong những thế kỷ trước, tín ngưỡng còn rất mạnh. Một số tín đồ tốt bụng đã
cầu nguyện ơn trên ban phước lành cho các bệnh nhân được khỏi bệnh. Lời cầu
nguyện chân thành của họ với niềm tin sâu sắc vào ơn trên đã khơi dậy sức
mạnh tâm linh nơi chính họ. Sức mạnh này đã vượt không gian làm dịu bớt cơn
bệnh của người kia. Dĩ nhiên là họ chưa đủ năng lực phi thường để chấm dứt
cơn bệnh của nạn nhân, nhưng lòng tốt của họ được đáp ứng. Qua kiếp sau, khi
mắc bệnh, họ thường được may mắn gặp các nhà ngoại cảm tài ba chữa trị, ít
tốn tiền và không đau đớn. Đó là lý do tại sao không phải ai cũng nhận được
sự chữa bệnh bằng năng lực tâm linh. Còn những người thầy thuốc chỉ tin vào
hiệu quả của thuốc thang, siêng năng điều chế lá thuốc,
hóa chất để chữa
Tuy nhiên, các thiền sư khuyên không nên sử dụng thần thông nhiều khi chúng
ta chưa đạt đạo viên mãn, bởi vì ngã chấp chưa hết. Khi dùng đến năng lực
tâm linh, chúng ta phải khởi ý muốn, muốn trời kéo mây và rơi mưa, muốn
người bay lên khỏi mặt đất, muốn biết chuyện tương lai như thế nào… Chính
“cái muốn” này làm cho chấp ngã tăng trưởng, và khi chấp ngã tăng trưởng,
chúng ta không thể giải thoát để tan hòa vào Bản Thể vũ trụ vô biên.

Chỉ những vị Alahán đã chứng ngộ viên mãn, ngã chấp đã hết, mới có thể sử
dụng thần thông thường xuyên mà không bị chấp ngã ràng buộc. Chính vì thế
khi một người tu tập thiền định, chỉ nên lắng tâm sâu thẳm cho đến tận cùng
của sức định, không nên khởi phát thần thông nửa chừng kẻo bị trì trệ về
sau.
Một số thầy pháp, thầy phù thủy có năng lực tâm linh mạnh mẽ và lạm dụng nó
quá đáng để luyện pháp thuật. Họ tập trung tinh thần để ếm hại kẻ thù. Họ vẽ
một hình người, ghi tên họ của đối phương rồi thắp hương, tụng chú cầu
nguyện các vị thần linh phò trợ. Sau đó, họ lập một ý muốn hướng về đối thủ,
tưởng tượng rằng đối thủ bị đau đớn bệnh tật… Do sức mạnh tâm linh và cũng
do người bên kia đến lúc trả nghiệp, người kia chợt thấy trong mình đau thắt
từng cơn có thể chết được.

Những thầy phù thủy như vậy về cuối đời thường bị quả báo thê thảm, họ bị
bệnh liệt, mù mắt, ăn lấy phân của mình, mình mẩy hôi hám không ai dám lại
gần. Sau khi chết, ở kiếp khác, họ còn bị nhiều tai nạn hơn nữa.

Tuy rằng năng lực tâm linh có vẻ cao cấp hơn năng lực vật lý (vì tính tế nhị
vô hình của nó), nhưng nó vẫn chịu sự chi phối của Nghiệp Báo. Khi một người
sử dụng năng lực tâm linh, họ cũng gây nên ảnh hưởng vào trong vũ trụ. Ảnh
hưởng này lan dần qua nhiều trung gian, cuối cùng gặp lại người đã tạo ra
nó. Nếu là một nghiệp thiện, tác giả sẽ nhận lại niềm vui. Nếu là một nghiệp
ác, tác giả sẽ nhận lại nỗi khổ.

Một ông thầy Miên, khi còn trẻ đã dụ dỗ cô nhân tình vào rừng vắng rồi giết,
mổ lấy bào thai trong bụng rồi đem về luyện Thiêng linh cái. Pháp thuật của
ông nổi tiếng cả vùng. Nhiều người nhờ ông thư ếm kẻ thù của họ, hoặc nhờ
ông tìm của bị mất, hoặc nhờ ông chuốc bùa yêu cho các cô gái. Do đó sự quen
biết của ông rất rộng rãi. Một chàng trai đi vào rừng tìm lá thuốc. Chợt như
sức mạnh vô hình kéo anh ta đi xa mãi đến khi anh ta trông thấy bộ xương
trắng của cô gái. Anh thương xót đào lỗ chôn cất tử tế rồi quay về. Vì tốn
công sức vào việc chôn bộ xương nên đi ngang nhà ông thầy Miên, anh mệt mỏi
ghé vào hỏi thăm, nghỉ ngơi và xin nước uống. Ông thầy nói chuyện ba câu rồi
ra sau bếp lấy thêm nước. Một con rắn vừa mới bò ngang cắn vào tay ông. Nọc
rắn này ngoài khả n

Một người chồng đau khổ đến thưa công an vợ mình bị mất tích. Việc điều tra
sau đó không đưa đến kết quả. Một trinh sát được giao trách nhiệm bí mật
điều tra. Sau nhiều kết quả, anh trinh sát đoán rằng chính người chồng đã
giết vợ rồi phi tang. Nhưng cần phải có thêm chứng cớ xác đáng mới có thể
kết luận và khởi tố được. Những buổi tối anh thường đến sát buồng ngủ của
người chồng để nghe ngóng hy vọng tìm ra thêm một manh mối nào đó. Cứ mỗi
lần đi ngang qua bụi chuối gần ao nước là anh bị té. Một linh cảm lóe lên.
Anh yêu cầu công an xã đến đào bụi chuối. Và xác người vợ được tìm thấy,
người chồng nhận tội.
Ở đây chúng ta đừng hiểu là có vong hồn xen vào can thiệp. Thật ra chính
nghiệp và năng lực tâm linh đã giải quyết. Nghiệp đã thúc đẩy anh chàng đi
hái thuốc đến gặp bộ xương. Sự mệt mỏi buộc anh ghé lại nhà ông thầy Miên.
Và con rắn độc bò ngang đúng lúc ông vào bếp lấy nước. Ông đã sử dụng năng
lực tinh thần quá nhiều với vô số lời trù ếm cầu nguyện. Tất cả chuẩn bị cho
một sự rối loạn tâm thần về sau. Nhưng có thể ông còn khỏe, định lực còn
mạnh để trấn áp mọi sự rối loạn. Đến khi bị rắn cắn, cơ thể suy yếu, tinh
thần giảm sút, sự rối loạn tâm thần bùng khởi khiến ông phải khổ sở vì các
ảo ảnh hiện ra quấy phá dữ dội.

Cũng vậy, không phải vong hồn người vợ xô té anh trinh sát. Chính tâm lý đau
đớn vẫy vùng của người vợ lúc bị giết đã tạo nên một năng lực mạnh mẽ ghi
dấu vào không gian xung quanh. Nghiệp đã thúc đẩy anh trinh sát đi ngang qua
vùng không gian tang tóc này. Năng lực tâm linh còn ghi dấu đã xô té người
trinh sát và tấn công vào tâm cảm của anh khiến anh linh cảm có xác người vợ
nằm ở dưới này và vụ án được kết thúc.

Không gian tâm linh tuy vô hình nhưng một khi đã khởi tác dụng thì rất lớn.
Vì thế mỗi ý nghĩ thầm kín của chúng ta vẫn lặng lẽ tạo thành nghiệp, gây ra
ảnh hưởng vào thế giới này. Với những tư tưởng oán thù ích kỷ, chúng ta đã
tung vãi sự xấu xa vào cuộc đời. Ảnh hưởng của tư tưởng vào tâm hồn những
người xung quanh khó thấy nhưng vẫn có chứ chẳng phải không. Một nhà thôi
miên tập trung định lực dồn vào tâm người nghiện rượu những tư tưởng bỏ
rượu. Sau lần thôi miên đó, người kia từ trong sâu kín, cảm thấy không muốn
uống rượu nữa.
Một bà mẹ đau khổ vì đứa con lêu lỏng ngỗ nghịch, đêm đêm cầu nguyện chư
Phật gia hộ cho đứa con thay tâm đổi tính. Những lời nguyện chân thành đó
tạo thành sức thôi miên từ xa. Lâu ngày người con trở nên hiền lành và biết
nghe lời khuyên bảo của gia đình.

Đó là những trường hợp tâm lực có tập trung hướng vào một đối tượng nhất
định. Còn những tư tưởng thiện ác của chúng ta, không tập trung vào riêng
ai, nhưng vẫn gây ra tình trạng lây nhiễm âm thầm vào tâm hồn của người xung
quanh. Thường xuyên thấm nhuần tư tưởng từ bi, vô tình, không cần nói thành
lời, chúng ta vẫn chuyển hóa phần nào sự ác độc của mọi người. Ngược lại
cũng vậy.

Do đó, nếu không có một lập trường vững chắc, chúng ta sẽ bị nhiễm ác nếu
sống gần người xấu thường xuyên. Cái lây lan của tư tưởng này rất giống cái
lây lan của virus. Những ai thiếu sức đề kháng sẽ bị tư tưởng của người
chung quanh chinh phục.

Người thường xuyên nuôi dưỡng những tư tưởng tốt lành, gây ảnh hưởng đẹp đẽ
vào láng giềng, đời sau họ sẽ sinh vào một cộng đồng gồm những người tốt.
Người Nhật vẫn đang là tiêu biểu cho loại cộng đồng thông minh lịch sự này.
Tinh thần võ sĩ đạo trọng danh dự, tinh thần thiền định thâm trầm, những
nghệ thuật trang nhã sâu sắc về trà hoa… đã quyện lại thành một nhân cách
đặc biệt của dân tộc Nhật. Gần đây trong xã hội công nghiệp Nhật có một vài
biểu hiện thực dụng, vật chất, xa rời truyền thống cổ đang bị lên án. Nhưng
so với cộng đồng khác, người Nhật vẫn còn được đánh giá cao.

Đối với những người hiểu luật Nghiệp Báo, hiểu rõ sức ảnh hưởng của tư tưởng
vào môi trường chung, họ sẽ giữ gìn tâm hồn để không bị nhiễm bẩn bởi các
dòng tư tưởng ác trong không gian, đồng thời họ còn chân thành cầu nguyện
cho mọi người đều được tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ
con người, con thú, đến tận cây cỏ lá hoa. Không nói được thành lời, họ sử
dụng tư tưởng để cải thiện đạo đức của xã hội. Dĩ nhiên với hạnh nghiệp này,
kết quả đời sau cho họ là địa vị thánh nhân được mọi người ca ngợi kính
trọng. Những vị thánh triết này có một nhân cách siêu phàm, có sức cuốn hút
đặc biệt làm cho người đến gần cảm thấy khuất phục tự nhiên. Đó là lý do tại
sao thỉnh thoảng trong nhân loại, chúng ta thấy xuất
hiện các vị hiền

Có những quả báo phải nhận lấy trong không gian vật lý như bị chửi mắng,
đánh đập, giết hại, hoặc giàu sang quyền thế. Nhưng cũng có những quả báo
được kết thành trong không gian tâm linh chủ quan của riêng mình. Trường hợp
thằng bé chăn trâu chợt thấy cái thành lửa rồi bị cuốn vào thiêu đốt đau đớn
là một ví dụ xác đáng. Đây là không gian tâm linh của riêng nó, các bạn
chung quanh không ai thấy. Cái đau khổ mà nó phải nhận lấy không thua kém gì
cái đau khổ bị hành hạ ở không gian vật lý. Có lẽ trước kia nó từng nuôi
nấng nhiều tâm niệm ác độc hận thù. Đến lúc đủ nhân duyên, tâm nó xuất hiện
ảo ảnh.

Nhiều người khi sống làm nghề sát sinh như giết thịt heo, gà, vịt… Đến lúc
gần chết họ ngã bệnh thấy vô số súc vật đến rúc rỉa cắn xé. Họ đau đớn kêu
la nhờ người thân đuổi giùm, nhưng vợ con chung quanh đành bó tay đứng nhìn
chẳng thấy con vật nào cả.

Ngài Huyền Trang là một tấm gương lớn lao về đạo hạnh nghiêm trang, tâm cầu
đạo tha thiết và chí nguyện độ sinh tuyệt vời. Ngài chịu đựng gian khổ sang
Ấn độ học hỏi, chiêm bái thánh tích và thỉnh kinh về Trung Hoa. Sau khi về
nước, được sự trợ giúp của Đường Thái Tông, Ngài nỗ lực phiên dịch kinh
điển. Thời gian cuối đời, Ngài thường thấy cảnh cõi trời, thiên nữ rải hoa
cúng dường, tâm Ngài vô cùng hoan hỉ.

Có một số người suốt đời tích đức, làm thiện, khi chết nét mặt rạng rỡ hân
hoan và kể rằng họ thấy chư thánh đến rước, hào quang chói lòa, thậm chí có
khi mùi hương thơm tỏa ra ngào ngạt thân quyến cùng nghe thấy.

Do hiện tượng khó hiểu này nên nhiều nhà truyền giáo đã giải thích có một sự
hiện hữu của các cõi siêu hình như thiên đường, địa ngục…
Còn những cái đau khổ hay vui sướng do thế giới của tâm hồn đem lại cũng
tương đương với cái khổ vui của thế giới vật lý, bởi vì nó cũng là kết quả
tương xứng với nghiệp quá khứ.

Sự nối kết giữa các cõi với nhau chính là TÂM của mỗi người. Chỉ xoay vào
Tâm,chúng ta mới có thể liên lạc hoặc tìm thấy các cõi giới khác. Không một
máy bay tên lửa nào đưa chúng ta đến được thiên đường. Tuy nhiên,đôi khi tâm
chúng ta cũng hiện ra các ảo ảnh tương tự như nhũng cõi giới khác và chúng
ta sẽ hiểu lầm rằng mình đã đạt được sự thông đạt với cõi trên. Mê tín bắt
đầu từ đó.

CHƯƠNG 4
BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI

Dùng ngôn ngữ tương đối để nói về Bản Thể Tuyệt Đối là một điều khó khăn, dễ
gây hiểu lầm và đôi khi phản bội chân lý. Ngôn ngữ có thể tải được đạo lý,
nhưng chính ngôn ngữ cũng là chướng ngại cho sự thực chứng chân lý. Niết bàn
vốn không tên nhưng người ta đã đặt tên Niết Bàn. Phật tánh vốn không tên
nhưng người ta đặt tên Phật tánh. Rồi chính cái tên gọi này trì giữ con
người đứng lại tại đó, không vượt qua được để đến với chỗ tâm linh mầu nhiệm
không ý không lời.

Nhưng nếu không nói về chân lý cứu cánh này thì chư Phật mắc tội bỏn xẻn
giống như là còn có đôi bàn tay nắm lại. Phải tuyên dương về đạo lý tột cùng
này cho mọi người thú hướng, chấm dứt sự tự mãn với những giai đoạn nửa
chừng. Với người lấy ý thức lý luận làm sự nghiệp, cần phải tạo ra cho họ
biết còn có vô thức sâu kín với những tác dụng to lớn phi thường. Tác dụng
của vô thức có thể phá vỡ những qui luật của không gian vật lý.

Với người đạt được định sâu thẳm, thâm nhập vào được thế giới vô thức, phải
cho họ biết còn có Bản Thể Tuyệt Đối của vạn hữu vũ trụ. Nơi Bản Thể này mới
là tận cùng con đường của người đi tìm chân lý.

Một vài tôn giáo cho rằng có một thần linh tối cao mà con người chỉ có tuân
phục chứ không thể nào bình đẳng được. Con người phải thờ phượng, cầu xin để
được vị thần linh tối cao đó ban ân sủng.

Trong đạo Phật và một vài tôn giáo Đông phương phủ nhận quan điểm này. Bởi
vì cái tối cao không phải là một thần linh mà chính là Bản Thể Tuyệt Đối. Ai
cũng có thể chứng đạt Bản Thể Tuyệt Đối để giải thoát viên mãn và bình đẳng
với nhau. Đức Phật là người đã chứng đạt và dạy lại con đường. Ai đủ ý chí
và đi đúng đường đều sẽ thành Phật.

Không gian vật lý có tính khách quan triệt để vì những quy luật của nó tồn
tại ngoài ý muốn của con người. Ngược lại, không gian tâm linh có tính chủ
quan triệt để vì tác dụng của nó hoàn toàn dựa vào ý muốn của con người.

Ở không gian vật lý, nếu con người muốn bay lên cao, họ phải dựa vào các qui
luật khoa học để chế tạo ra các thiết bị bay có cánh tựa vào không khí, có
lực đẩy, lực nâng… nghĩa là ý muốn của họ phải dựa vào quy luật. Còn trong
không gian tâm linh, nếu đủ năng lực tâm linh, họ chỉ khởi ý muốn bay là có
thể bay lên, không đếm xỉa gì đến trọng trường của quả đất. Ở đây, ý muốn
của họ là yếu tố quyết định. Nhiều nhà khoa học đã cố gắng tìm hiểu không
gian tâm linh một cách khách quan, bỏ quên tính cách chủ quan triệt để của
nó, và họ đã lạc lối, không tìm ra chìa khóa của vấn đề. Họ đưa ra các lý
thuyết về không-thời gian nhiều chiều, về nhiều loại vũ trụ để giải thích và
họ đã đi quá xa.

Còn Bản Thể Tuyệt Đối vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan.

Bản Thể có tính khách quan vì ai đã thoát hẳn chấp ngã mới có thể chứng đạt
được. Không có chấp ngã nên Bản Thể không có tính chủ quan, có vẻ như khách
quan thật sự. Trong Bản Thể không có cái TA riêng rẽ, tất cả đều chung đồng
hòa hợp. Nơi không gian vật lý, mọi thứ đều hiện bày sự sai biệt của riêng
nó, nó hiện diện riêng rẽ và tác dụng vào môi trường theo tương quan vật lý.
Một cái cây mọc chơ vơ một mình, không giống gì với xung quanh, nhưng có ảnh
hưởng vào môi trường, vì hoạt động lọc khí, hấp thụ ánh sáng… Còn trong
Bản Thể tất cả đều hòa hợp cảm ứng lẫn nhau. Không còn riêng rẽ, không phải
là tương tác vật lý khô khan.

Người hòa nhập vào Bản Thể ngay lúc đó đã trở thành toàn thể vũ trụ, không
còn là tương tác vật lý khô khan.

Người hòa nhập vào Bản Thể ngay lúc đó đã trở thành toàn thể vũ trụ, không
còn là cá thể biệt lập nữa.

Đứng ở không gian vật lý, ta thấy cái cây và cục đá là hai thứ tách rời. Còn
trong Bản Thể cái cây và cục đá là một. Nói là một, chúng ta đừng hiểu là
không còn cái cây không còn cục đá, đừng hiểu là cái cây và cục đá biến mất.
Chúng vẫn hiện hữu, vẫn không lẫn lộn, nhưng vẫn chung đồng duy nhất với
nhau. Ngôn ngữ không diễn tả được chỗ này. Người chứng ngộ thì “thấy” rõ
ràng, người chưa chứng ngộ thì phải có trực giác để cảm nhận phần nào chỗ vi
diệu đó.
Toàn bộ không gian và thời gian đều chung đồng nơi Bản Thể.

Ở không gian vật lý chúng ta thấy không gian trải rộng vô biên, và thời gian
kéo dài vô hạn. Nhưng trong Bản Thể mọi vị trí đều chung đồng với nhau,
không còn xa cách, mọi thời điểm đều tụ hội không xa xôi. Nói như thế không
có nghĩa là mọi vị trí, mọi thời điểm đều biến mất. Không, chúng vẫn hiện
hữu, không lẫn lộn. Nhưng vẫn “như là” ở một chỗ với nhau trong Bản Thể kỳ
diệu này. Mặt trời vẫn là mặt trời. Sao Lalande vẫn là sao Lalande (cách
nhau 8 năm ánh sáng) không lẫn lộn nhưng vẫn “như là” ở một chỗ với nhau
trong Bản Thể.

Thời gian cũng vậy, năm 1990 vẫn là 1990 không lẫn lộn với năm 2000, nhưng
vẫn như là một chỗ với nhau trong Bản Thể.

Bộ phim khoa học giả tưởng “Trở về tương lai” của Mỹ trình bày một nhà bác
học chế được một cái máy để đưa con người sống trở lại quá khứ. Ông và người
bạn trẻ sống lại thời gian cách đây gần 100 năm. Họ mang quan điểm, tư
tưởng, y phục của thế kỷ này để sống lẫn lộn với những người đang sống thế
kỷ trước. Sau nhiều rắc rối, họ tìm cách trở về tương lai, nơi họ đã xuất
phát.

Tư tưởng của bộ phim thật là táo bạo, trong đó, người viết kịch bản đã xem
thời gian như là không gian, nếu có phương tiện, người ta có thể đi từ thời
điểm này sang thời điểm khác.

Thật ra, đối với Bản Thể, điều này không thích hợp vì đã có sự lẫn lộn giữa
con người vượt thời gian đó. Cách đây một thế kỷ, đã có người đó sống với tư
tưởng, quan điểm y phục của thời bấy giờ. Không thể nào xóa nhân vật đó để
đưa con người tương lai sau một thế kỷ thay chỗ với tư tưởng, quan điểm, y
phục khác biệt. Như vậy là lẫn lộn giữa vấn đề, cùng một con người, nhưng ở
một quá khứ bị xóa mất, thay vào đó là người tương lai nhờ máy móc trở lại
quá khứ để sống.

Nơi Bản Thể có sự hòa hợp chung đồng nhưng không có lẫn lộn.

Hoặc một phim thần thoại HongKong tựa Hoa Sơn Thánh Mẫu. Để tiêu diệt Hoa
Sơn Thánh Mẫu, Ma Vương đã tìm lại thời gian 500 kiếp trước để tiêu diệt
tiền thân của bà. Nếu tiền thân bị tiêu diệt, lập tức thân hiện tại bị tan
vỡ. Đây cũng là một lối hiểu sai lầm vì đã lẫn lộn về thời gian. Trong Bản
Thể, mọi thời điểm đều nằm chung một chỗ, nhưng thời điểm nào vẫn là thời
điểm ấy. Người ở thời điểm này không thể lộn qua con người ở thời điểm kia.
Ma Vương ở thời điểm hiện tại không thể đem ý đồ ác độc của mình để trở lại
500 đời trước vì lúc đó hắn đã từng có mặt với một tư tưởng khác.Chúng ta
chỉ có thể trở lại quá khứ bằng cái Biết mà thôi.

Chúng ta nói Bản Thể vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, bởi vì Bản
Thể là vô ngã (Giống như Hòa thượng Thiện Siêu nói vô ngã là Niết Bàn) nên
có tính khách quan; nhưng trong cái vô ngã đó vị đạt đạo vẫn có cái cảm ứng
thấu rõ tất cả sự kiện gì nếu vị ấy muốn. Thế nên, Bản Thể vẫn có vẻ mang
tính chủ quan. Ví dụ vị đạt đạo muốn biết một hành tinh xa xôi, vị ấy, từ
nơi cái tịch diệt tuyệt đối của Bản Thể, xuất hiện cái cảm ứng siêu việt,
nơi cái cảm ứng này vị ấy trở thành duy nhất với hành tinh kia và thấu rõ về
hành tinh kia như “xem một trái xoài trong lòng bàn tay”. Ở đây, cái cảm
ứng giống như là cái biết, nhưng nơi cái biết này, người biết và đối tượng
bị biết không chia ra làm hai, biết mà vẫn vô ngã.

Chính vì có cái “biết-cảm ứng” này mà Bản Thể như có tính chủ quan, nhưng vì
vô ngã nên như có tính khách quan.

Ở không gian vật lý, chúng ta thấy thời gian trôi mãi không ngừng. Hàng tỷ
tỷ năm đã trôi qua và còn tỷ tỷ năm nữa sẽ đến. Những gì của quá khứ xa xăm
dường như đã mất hút, tan hoại, thay đổi. Những gì của tương lai lâu dài về
sau dường như mờ nhạt, không rõ ràng, chưa có. Nhưng thật ra trong Bản Thể,
tất cả đều “dường như” ở tại một chỗ không chia cách với nhau. Do đó, một vị
đạt đạo có thể an trụ tại Bản Thể Tuyệt Đối này để tìm hiểu những gì đã qua
hoặc những gì sẽ đến một cách rõ rệt.

Đứng ở không gian vật lý, con người có cái nhìn khách quan, họ vô tư đi tìm
mọi quy luật của vũ trụ. Đó là điểm đáng quý của khoa học hôm nay. Họ không
thể dùng ý muốn của mình để thay đổi các quy luật đó. Đôi khi họ có phỏng
đoán nhưng họ sẽ kiểm chứng lại. Ví dụ như người xưa từng cho rằng mặt trời
quay quanh trái đất. Nhưng người nay đã kiểm chứng lại rằng trái đất quay
quanh mặt trời. Hoặc trước kia Le Verber dựa vào chuyển động nhiễu loạn của
Thủy tinh để lập luận rằng có một hành tinh đặt tên Vulcain ở giữa thủy tinh
và mặt trời.
Nhưng rồi Einstein đã phủ nhận và ông dùng thuyết Tương đối để giải thích
nhiễu loạn của Thủy tinh bởi các nguyên nhân khác. Ở không gian vật lý này,
con người không thể dùng ý muốn của mình để thay đổi quy luật. Họ chỉ áp
dụng những quy luật đó mà thôi.

Nhưng khi bước sang không gian tâm linh, sự tình bỗng thay đổi ngược lại, ý
muốn của con người sẽ tạo ra tất cả. Với một năng lực tâm linh mạnh mẽ, con
người có những thần thông phép lạ. Họ có thể bay lên cao, có thể hóa giải
khối lượng, di chuyển đồ vật từ xa không cần chạm đến, có thể đoán biết ý
nghĩ người khác, có thể thôi miên sai khiến người khác, có thể tiên tri,
chữa bệnh… Vô số hình thức thần thông biến hóa sẽ xuất hiện theo ý muốn
chủ quan của con người. Thậm chí, khi muốn có một linh hồn xuất ra khỏi thân
thể để bay dạo khắp nơi, lập tức một linh hồn sẽ thành hình. Thậm chí, khi
tin và muốn có một thiên đường lộng lẫy, lập tức, một cõi thiên đường sẽ
thành hình. Vì thế ở không gian tâm linh, niềm tin và ý muốn chủ quan của
con ngườ
i lại che lấp sự th

Chính vì tính chất chủ quan cực độ này dễ che lấp chân lý làm phát sinh tà
kiến, nên các bậc đạo sư sáng suốt đều cảnh giác đệ tử phải cẩn thận về các
tín điều đã được mớm từ xưa, phải hóa giải hết các ước muốn thầm kín, chỉ
lấy giới hạnh (giới,) tâm thanh tịnh (định) và vô ngã (huệ) là tôn chỉ trong
suốt quá trình tu hành. Chỉ khi nào họ vượt khỏi ngã chấp, chứng đạt Bản Thể
Tuyệt Đối, không còn bị các ước muốn chủ quan thôi thúc, họ mới không bị lầm
lẫn về vũ trụ và con người.

Những tín điều từ trước như cho rằng mỗi con người đều có linh hồn bất biến,
hoặc cho rằng trong vũ trụ có nhiều cõi siêu hình là nơi cư ngụ của các thần
linh, những tín điều đó luôn gây nguy hiểm khi con người bước vào không gian
tâm linh. Năng lực tâm linh sẽ theo niềm tin và ước muốn để tạo ra tất cả.
Đó là lý do tại sao trên thế giới có quá nhiều tín ngưỡng, quá nhiều thần
linh được thờ phụng, quá nhiều giáo điều lạ lùng. Hầu hết được tạo ra từ
không gian tâm linh của vị giáo tổ, mà mỗi vị giáo tổ đều có niềm tin riêng,
ước muốn riêng và sức tưởng tượng phong phú riêng.

Khoa học dựa vào không gian vật lý với các quy luật khách quan nên dù ở bất
cứ nơi đâu, người ta cũng lập lại được các thí nghiệm giống nhau. Còn đối
với tín ngưỡng dựa vào không gian tâm linh với tính chất chủ quan cực độ nên
không có kinh nghiệm của người nào giống người nào. Bởi vì mỗi người có ý
muốn khác nhau.

Chỉ khi nào vượt qua được chấp ngã, chứng đạt Bản Thể, cái thấy biết của họ
không còn sai lầm vì không còn bị niềm tin và ước muốn chi phối.

Bản Thể còn là chỗ tựa cho vạn hữu trong vũ trụ.

Giống như bao nhiêu hoa, lá, cành đều phải dựa vào gốc, cũng vậy, vạn hữu
sinh hóa vô tận đều dựa vào Bản Thể. Giống như xe cộ chạy dựa vào mặt đất,
cũng vậy, vạn hữu sinh hóa vô tận đều tựa vào Bản Thể, không tách rời Bản
Thể. Bản Thể là chỗ dựa vô hình, là gốc chi phối vô hình cho mọi sự sinh hóa
trong không gian tâm linh và không gian vật lý.

Chúng ta đừng tưởng một chiếc lá rơi, một con kiến bò không có dính líu gì
tới Bản Thể. Thật ra không một hạt bụi nào không tựa vào Bản Thể để tồn tại.
Tất cả đều chung đồng, hòa hợp, tương tác lẫn nhau, dù đó là một giọt nước,
một hòn sỏi, một con trùng hay một ý nghĩ.

Không gian vật lý này có vẻ biến động ồ ạt, thay đổi nhanh chóng. Dòng nước
đang chảy, mây đang bay, hành tinh đang di chuyển, các sinh vật đang phát
triển và hoại diệt.

Không gian tâm linh thì có vẻ yên lặng hơn, vô hình hơn, phi thường hơn
nhưng vẫn bị chị phối bởi niềm tin và ước muốn của mọi người để khởi tác
dụng.

Đến Bản Thể thì chỉ còn sự tịch lặng tuyệt đối và cái “biết cảm ứng” vô
lượng vô biên. Nhưng chính nơi chỗ tịch lặng tuyệt đối này lại là chỗ tựa
vững chắc cho các vật thể, các tác dụng, các hiện tượng nơi không gian vật
lý và không gian tâm linh.

Cái biến động làm cho tâm hồn con người nhỏ hẹp, thiển cận, không thể nhìn
vấn đề bao quát. Càng đi sâu vào thanh tịnh, tâm hồn con người càng trở nên
rộng lớn hơn, sáng suốt hơn và sắc bén hơn. Và khi hoàn toàn tịch lặng thì
con người trở thành toàn thể vũ trụ. Đây là giá trị nhân bản cao cả nhất mà
không ai có thể phủ nhận. Đối với không gian vật lý, con người chỉ là một
hạt bụi nhỏ bé vô nghĩa so với vũ trụ bao la. Nhưng “đi vào” Bản Thể, con
người nhỏ bé đó bỗng chính là vũ trụ.

Vì vậy ai chỉ biết nhìn con người theo không gian vật lý, họ sẽ xem thường
con người, đánh giá con người như một công cụ của guồng máy chung, như một
cái vốn của tài sản chung. Nếu nắm lấy quyền hành, họ sẽ sử dụng con người
như một món đồ vật cao cấp để phục vụ cho tham vọng của họ. Khi cần, họ loại
trừ những đồ vật kém giá trị.

Nhưng nếu đứng trên lập trường Bản Thể, con người đã ẩn chứa một giá trị
tuyệt đối sẵn có. Vấn đề còn lại là làm sao cho tất cả mọi mọi người đều đạt
đến giá trị tuyệt đối bằng cách thực hành thiền định sâu thẳm để chứng nhập
Bản Thể.

Nếu quan điểm này được phổ biến sâu rộng, con người sẽ yêu mến nhau hơn, tôn
trọng nhau hơn và giúp đỡ nhau nhiều hơn. Tình thương sẽ thật sự hiện hữu
khi con người biết được rằng tất cả đều có khả năng trở thành tuyệt đối.
Không gian vật lý này chỉ là một bề mặt cạn cợt trong cấu trúc vũ trụ, nó
thay đổi bất thường, dòn bỡ, dễ tan hoại. Dựa vào nó để sống, con người phải
chịu nhiều bất an, xao xuyến và đau khổ. Chỉ có Bản Thể Tuyệt Đối, là bề sâu
trong cấu trúc vũ trụ, là chỗ tựa vững chắc của vạn hữu, là tịch lặng tuyệt
đối và cảm ứng vô biên, mới đúng là chỗ sống đích thực của con người. Nơi
đây, tất cả mọi người đều giao hòa, chung đồng với nhau. Không cần nói đến
hai chữ tình thương mà tình thương vẫn bát ngát tràn đầy.

Từ xưa đến nay, các bậc hiền triết đều kêu gọi con người yêu mến nhau. Ở mức
độ ban đầu, trong tình thương này vẫn còn chia làm hai: người thương yêu và
kẻ được thương yêu. Chỉ khi nào đạt được Bản Thể, ngã chấp tan biến, con
người sẽ biết thương nhau với một tình thương mới, không bị chia làm hai
người thương và kẻ được thương. Trong đó người thương và kẻ được thương đã
trở thành duy nhất. Đó là Tâm Từ xuất phát từ Bản Thể Tuyệt Đối.

Bản Thể là tịch lặng tuyệt đối. Chính vì tịch lặng tuyệt đối nên nó cũng là
cái Biết tuyệt đối (Cảm ứng), nó cũng là tình thương tuyệt đối (từ bi) và nó
cũng là công bình tuyệt đối.

Nơi tính chất công bình TUYỆT ĐỐI này, luật Nghiệp Báo vận hành chi phối tất
cả.

Chúng tôi muốn kể lại câu chuyện ông Già Chồn vì ý nghĩa thâm thúy của nó.
Trong những lần thuyết pháp, Thiền sư Hoài Hải Bá Trượng thường thấy một ông
già lạ theo đại chúng vào nghe. Một lần sau buổi thuyết pháp, đại chúng đã
lui ra mà ông già vẫn nán lại.

Bá Trượng hỏi:
– Ông là ai?
Ông già đáp:
– Bạch Hòa Thượng! Con không phải là người, con là con chồn ở sau núi. Năm
trăm đời trước thời Đức Phật Ca Diếp, con cũng là một vị tu hành. Có một
người hỏi con:
“Bậc đạt đạo có còn ở trong Nhân Quả chăng?”
Con đáp:
“Không còn ở trong Nhân Quả”
Từ đó con đọa thân chồn đến nay đã năm trăm đời mà vẫn không biết chỗ sai
của mình ở đâu. Con mong Hòa Thượng chỉ dạy để con thoát được chỗ hiểu sai
và thoát được thân chồn.
– Vậy ông hỏi lại ta.
– Bạch Hòa Thượng! Bậc đạt đạo có còn ở trong Nhân Quả chăng?
Ngài Bá Trượng đáp:
– Không còn lầm Nhân Quả! (Bất muội Nhân Quả,không còn hiểu sai về Nhân Quả)
Ngay đó ông già đại ngộ, thưa:
– Bạch Hòa Thượng, thế là từ nay con thoát thân chồn, xin Hòa Thượng tống
táng con theo nghi lễ dành cho Tăng.

Nói xong ông già biến mất.

Sau buổi cơm trưa, ngài Bá Trượng dẫn chúng vòng ra hang sau núi, lấy gậy
khều xác con chồn cho đem về làm lễ trà tỳ.

Có một người tu thiền, nghe nói tất cả đều không, cuối cùng đưa đến phủ nhận
Nhân Quả. Họ cho rằng luật Nghiệp Báo chi phối kẻ phàm phu chứ không thể chi
phối bậc thánh. Tà kiến này không đúng.

Thật ra, luật Nghiệp Báo xuất phát từ Bản Thể sâu kín. Người chỉ biết có
không gian tâm linh thì chưa thấy được luật Nghiệp Báo rõ ràng. Vị đạo sư
chứng nhập Bản Thể mới có thể tận tường đường đi của Nghiệp Báo. Bất cứ một
hạnh nghiệp nào đều có quả báo của nó, dù đó là hạnh nghiệp của bậc Thánh
hay của phàm phu. Các Bồ tát đã chứng đạo, thị hiện vào sinh tử để hóa độ
mọi người đều cũng phải dựa vào luật Nghiệp Báo. Các Ngài phải gieo duyên
lành với mọi người để được mọi người thương mến, sau đó mới dùng đạo lý để
dạy dỗ họ. Muốn cho họ được thiền định sâu thẳm để giải thoát, Bồ Tát phải
hướng dẫn họ tạo phước ban đầu ra sao, tu tập thế nào chứ không thể dùng
thần thông của mình để làm cho họ nhập định. Không có
một sơ hở nào nơi

Triết gia Spinoza (1632-1667, Hòa Lan) cho rằng Bản Thể là tập hợp các quy
luật của khoa học khách quan của vũ trụ. Điều này đúng bởi vì cả không gian
vật lý, không gian tâm linh đều dựa vào Bản Thể để vận động. Tuy nhiên, hai
không gian đó đều chưa có quy luật Nghiệp Báo. Từ trong Bản Thể, luật Nghiệp
Báo âm thầm chi phối sự vận hành của Vạn hữu trong không gian vật lý và tâm
linh.

Nhưng quy luật Nghiệp Báo lại dấu mặt tận trong Bản Thể. Vạn hữu vận hành
theo bàn tay sắp xếp của luật Nghiệp Báo nhưng chúng ta không hề thấy rõ
luật Nghiệp Báo đó mặt mày, hình dáng ra như thế nào. Chính vì thế, con
người ít chịu chấp nhận luật Nghiệp Báo. Các quy luật khoa học khác thuộc
không gian vật lý đều đang được dần dần tìm thấy. Nhưng luật Nghiệp Báo
không thể được tìm thấy nếu người ta không “đứng” trong Bản Thể.

Con đường còn rất xa để cho khoa học tìm thấy luật Nghiệp Báo bởi vì khoa
học còn đứng ở trong không gian vật lý, chưa bước sang không gian tâm linh,
và chưa hề nghĩ đến Bản Thể Tuyệt Đối. Thật ra không cần phải đi hết không
gian này rồi mới bước sang không gian khác. Khoa học vẫn có thể cùng lúc
nghiên cứu cả ba lãnh vực (vật lý, tâm linh và Bản Thể) và sự nghiên cứu ở
lãnh vực này trợ giúp cho sự nghiên cứu ở lãnh vực kia mau chóng hơn.

Tuy nhiên, nhiều nhà đạo học sẽ không đồng tình khi nghe nói đem vấn đề tâm
linh và Bản Thể ra làm đối tượng để nghiên cứu, bởi vì tâm linh thì vô cùng
chủ quan và Bản Thể thì tịch lặng tuyệt đối không có chỗ bám.

Nói nghiên cứu, không có nghĩa là nghiên cứu vấn đề tâm linh, Bản Thể giống
như nghiên cứu vật lý. Mỗi lãnh vực có cách nghiên cứu riêng. Miễn là có
người đi trước nắm được vấn đề rõ ràng để giúp cho nhân loại có thêm tri
thức, có thêm hướng đi và có thêm ích lợi.

Khi nhân loại có thêm sự hiểu biết về không gian tâm linh và Bản Thể, họ sẽ
sống sâu sắc hơn, thâm trầm hơn, thanh tịnh hơn và đạo đức hơn.

Theo những thông tin về sự tiếp xúc với người ngoài hành tinh, chúng ta được
biết họ có khả năng tâm linh rất mạnh, có thể thôi miên sai khiến chúng ta,
có thể xóa trí nhớ chúng ta về cuộc gặp gơ,õ có thể biết ý nghĩ chúng ta, có
thể truyền tư tưởng vào tâm chúng ta. (Tổng hợp nhiều tài liệu nước ngoài,
Con người và Trường Sinh Học của Nguyễn Hoàng Phương)

Phải chăng một nền văn minh đích thực là một nền văn minh có sự phát triển
cao độ về cả ba lãnh vực Khoa học, Thiền định và Đạo đức ? Thiết bị bay của
họ chứng tỏ sự tiến bộ vượt bực về khoa học vật lý nơi hành tinh họ, khả
năng tâm linh của họ chứng tỏ sự thông thái về tâm linh. Còn vấn đề họ có
khái niệm gì về Bản Thể hay không thì rất khó đánh giá. Nếu họ có kiến thức,
có khái niệm về Bản Thể, họ sẽ hiểu rõ luật Nghiệp Báo và đương nhiên họ sẽ
có một nền đạo đức cao độ. Nếu quả thực nơi hành tinh của họ có nhiều người
chứng đạt Bản Thể thì chúng ta sẽ kinh ngạc vô cùng khi kinh điển đạo Phật
đã từng nói đến những bậc giác ngộ ở mười phương thế giới.

Một hành động thiện vừa xuất hiện, ngay lập tức một kết quả vui được thành
lập trong Bản Thể. Một hành động ác vừa xuất hiện, ngay lập tức một kết quả
khổ liền được hình thành trong Bản Thể.

Trong Bản Thể, quá khứ, hiện tại và vị lai đều ở chung một chỗ và không lẫn
lộn với nhau. Một hành nghiệp ở hiện tại, ngay lập tức đã có liền một quả
báo ở vị lai. Tất cả vẫn còn ở trong Bản Thể. Nhưng để ứng ra trong không
gian vật lý, hiện tại đi đến vị lai là cả một thời gian dài chia cách.

Ví dụ, vì thương xót cảnh cháy nhà khổ sở của người láng giềng, ông Tư Quạu
đem tặng họ một số tiền lớn mà ông đã chắt chiu dành dụm từ lâu nay. Lập tức
trong Bản Thể đã hình thành xong một kết quả là vào thời điểm bốn mươi năm
sau, khi ông Tư Quạu được hai mươi tuổi ở kiếp kế tiếp, ông được trúng số
độc đắc.

Ví dụ bà Hai Nhăn vì ganh ghét đứa con riêng của chồng, đã bí mật giết nó
rồi phi tang. Lập tức trong Bản Thể xuất hiện hai quả báo, một bà bị giết
chết khi còn nhỏ ở kiếp sau, hai là qua kiếp sau nữa, con bà bị giết chết
khiến bà vô cùng đau khổ.

Vì toàn bộ thời gian đều ở chung một chỗ nên một nghiệp nhân vừa có mặt là
lập tức một quả báo xuất hiện. Tuy nhiên, để ứng hiện ra không gian vật lý
này, chúng cần một khoảng cách khá xa.

Đôi khi chúng ta có thể ví Bản Thể giống như một máy siêu điện toán, vừa đưa
bài toán vào liền có đáp số, vừa đưa dữ kiện vào liền có phương án để thực
hiện. Nhà lập trình đưa vào các dữ kiện về phân bố quy hoạch vùng nông
nghiệp, lập tức máy điện toán đưa ra các phương án tối ưu để thực hiện.
Nhưng để thực hiện phương án đó, bộ nông nghiệp cần nhiều thời gian. Bản Thể
cũng vậy, một nghiệp nhân vừa được gây tạo, lập tức một quả báo được hình
thành.
Tuy nhiên, nghiệp duyên của mọi người rất phức tạp. Một hành vi bố thí liền
hình thành một quả báo giàu sang. Sau đó người này còn gây nhiều nghiệp
thiện ác kế tiếp. Những nghiệp sau làm biến dạng quả báo giàu sang trước đó.
Ví dụ, do hành vi bố thí thuần thục, ông Sáu cảm được quả báo giàu có. Bên
cạnh hành vi bố thí, ông Sáu còn có lòng hận thù với người láng giềng và hại
họ chết tức tưởi. Sau đó ông hối hận tìm đến chùa để quy y, tụng kinh tập tu
dần dần. Quả báo hình thành cho ông là đời sau trong đời sống giàu có, vợ
con ông bị chết vì tai nạn. Ông đau khổ bỏ nhà đi xuất gia làm tu sĩ. Rồi
qua một đời khác nữa, chính ông bị giết hại mới trả hết nghiệp cũ.

Từng nghiệp, từng nghiệp của hiện tại vẽ lên bức tranh của đời sống vị lai.
Mỗi nghiệp giống như một nét vẽ. Tùy theo nét vẽ khéo hay vụng, bức tranh vẽ
đẹp hay xấu. Tùy theo nghiệp ác hay thiện, cuộc đời sẽ khổ hay vui.

Mỗi người tự gây rất nhiều nghiệp, tạo nên rất nhiều quả báo phức tạp chồng
chéo làm biến đổi lẫn nhau. Một hành động ác kết thành một quả báo để dành
sẵn trong Bản Thể. Nhưng những hành động Thiện kế tiếp làm cho quả báo khổ
kia bị hạn chế, biến dạng không còn giống như ban đầu.

Ví dụ một người đi lạc vào rừng sâu bị thiếu nước uống, thiếu thức ăn và
tránh né thú dữ một cách vất vả. Cái chết đã chập chờn trước mặt. Nhưng rồi
anh ta được một nhóm thợ săn cứu sống.

Có lẽ đời trước anh gây một nghiệp ác đáng lẽ phải bị chềt vì đói, vì thú dữ
trong rừng sâu. Nhưng sau đó anh tạo nhiều nghiệp thiện khiến cho quả báo bị
biến dạng và anh được cứu sống.

Nếu chúng ta có thể chế tạo một máy siêu điện toán để tính ra quả báo, rồi
đem hết hạnh nghiệp thiện ác của một người từ hành vi, lời nói và ý nghĩ vào
cho máy tính toán, có lẽ máy sẽ cho chúng ta thấy một bức tranh quả báo ở vị
lai vô cùng thú vị, trong đó các nghiệp trừ cấn lẫn nhau làm thành muôn màu
muôn vẻ phong phú vô cùng.

Nhưng chưa hết phức tạp, ngoài nghiệp riêng của mỗi người còn có tương quan
giữa mọi người với nhau. Được gọi là thiện khi chúng ta làm lợi ích cho con
người. Được gọi là ác khi chúng ta gây đau khổ cho người. Như vậy khi tạo
nghiệp thiện hay ác tức là ta tác động vào mọi người chứ không phải tác động
vào hư không. Một nghiệp được gây tạo luôn luôn có liên hệ với người khác.
Nghiệp thiện ác trở thành tài sản phước tội của riêng chúng ta, để dành
riêng cho tương lai ta; nhưng sự liên hệ giữa ta với mọi người tạo thành cái
DUYÊN cho đời sau. Nghiệp và Duyên luôn luôn đi đôi.

Chúng ta đã tạo vô số nghiệp cũng có nghĩa là tạo ra vô số Duyên với mọi
người. Do duyên đó, những đời sau ai sẽ là cha mẹ, ai sẽ là bạn bè, đều được
sắp xếp ngay từ bây giờ trong Bản Thể.

Máy điện toán luôn luôn có giới hạn trong khả năng tính toán. Nó không thể
tính một bài toán quá phức tạp vượt khỏi khả năng xử lý của nó. Còn với Bản
Thể thì khả năng này là vô hạn. Có vô số mọi người, mỗi mọi người tạo vô số
nghiệp, vô số duyên chồng chéo đan xen lẫn nhau; rồi nghiệp mới làm biến
dạng thay đổi quả báo của nghiệp cũ. Bản Thể vẫn khách quan sắp xếp tất cả
một cách chặt chẽ để tạo thành một bức tranh toàn xã hội, toàn thế giới,
toàn vũ trụ không một chút lầm lẫn, xã hội sẽ thịnh hay suy, thế giới sẽ
tiến hay lùi, vũ trụ sẽ ổn định hay rối loạn… đều do nghiệp chung của tất
cả mọi người tạo nên.

Nói “Bản Thể sắp xếp tất cả”, chúng ta đừng hiểu Bản Thể trở thành một vị
thần linh mới để làm việc này, bày việc nọ… Bản Thể vẫn là tịch lặng tuyệt
đối, vô ngã hoàn toàn. Trong Bản Thể không còn có ý muốn chủ quan của riêng
ai. Không gian tâm linh là riêng của mỗi người vì chưa hết ngã chấp. Nhưng
Bản Thể không còn riêng rẻ vì ngã chấp đã hết. Ai chứng đạt thiền định thì
thể nhập Bản Thể có sẵn này. Lúc đó vị ấy trở thành toàn thể vũ trụ, cảm ứng
với tất cả mọi người.

Trong Bản Thể chứa đựng quy luật Nghiệp Báo âm thầm chi phối vạn hữu. Mọi
người gây nghiệp nhân và tự động Bản Thể hình thành sẵn quả báo để dành cho
vị lai. Đúng thời điểm thì quả báo hiện rõ nơi không gian vật lý. Chúng sanh
gây vô số nhân thì Bản Thể tự động hình thành vô số quả. Còn Bản Thể vẫn
tịch lặng và vô ngã. Không có ý muốn của ai chen vào sắp xếp trong đó.

CHƯƠNG 5
LUÂN HỒI

Theo các tôn giáo Ấn Độ, đời sống hiện tại không phải là đời sống duy nhất
của con ngươi. Trước đời sống này chúng ta đã từng có vô số đời trước, và
nếu không tu tập đến giải thoát viên mãn, còn có vô số đời sống chờ đợi
chúng ta ở phía sau.

Khi đời sống này chấm dứt, chúng ta sẽ tái sinh qua một đời sống khác. Đó là
luân hồi.

Luân hồi được nói đến rất nhiều trong đạo Phật, trở thành một trong những
giáo lý quan trọng trong tôn giáo này. Giáo lý mười hai nhân duyên giải
thích rõ nguồn gốc luân hồi bắt đầu từ tế đến thô như thế nào, từ tâm tế
trong vô thức đến hành vi bên ngoài như thế nào.

Gần đây, bác sĩ Edgar Cayse, trong khi đi tìm nguyên nhân bệnh tật của người
bệnh, đã nói về nhiều kiếp luân hồi.

Một người da trắng có tư tưởng căm thù người da đen kinh khủng, bởi vì một
kiếp trước ở Trung Đông, anh ta bị những người da đen bắt và giết chết trên
một chiếc ghe.

Một người bị bệnh thiếu máu mạn tính, bởi vì trước kia chiến đấu ở trận
tuyến, anh đã làm đổ máu nhiều người.

Có những người khi được thôi miên đã nói lại các tiền kiếp của mình với
nhiều chi tiết nhỏ.

Một số người khác nằm mơ thấy lại một số đoạn đời trong những kiếp trước.
Những vị Lạt Ma Tây Tạng khi còn bé thường kể về tiền kiếp của mình. Gần đây
báo chí thế giới có đưa tin về em bé Tenzin Osel Rinpoche, người Tây Ban
Nha, mới 6 tuổi nhưng đã có một đạo hạnh vững chắc và trí thức như vị sư Tây
Tạng ở Los Angeles (Hoa Kỳ) mất năm 1984. Em sinh năm 1985 trong một gia
đình nghèo ở ngoại ô Madrid. Em có tư thái rất lạ từ lúc mới lên ba. Năm
tuổi, em đã có thể ngồi Thiền suốt 2 giờ không nhúc nhích. Em kể lại tiền
thân, người ta kiểm tra thì thấy khớp với tiểu sử của Lạt ma Tây tạng
Thubten Yeshe. Nhà sư Thubten di cư đến Mỹ từ năm 1959 và chết ở Los Angeles
năm 1984.

Em bé này liền được một nhà sư Tây ban Nha là Basili Lloria bảo trợ nuôi dạy
và cho xuất gia. Trong một lần cùng với Basili Lloria đi qua các nước phương
Đông để chiêm bái Phật Tích, em đã đến Kuala Lumpur (Malaysia) tại trung tâm
Phật Giáo Thean-Hou. Em thuộc nhiều kinh Phật, thuyết pháp và cầu nguyện cho
tín đồ Malaysia hoàn toàn như một cao tăng. Người ta hy vọng em Tenzin sẽ
trở thành một vị Lạt Ma uyên bác kỳ tuyệt của thế kỷ 21.

Nhiều người Tây phương đã bắt đầu tin có luân hồi tái sinh. Một đoạn Phúc âm
sau đây cho thấy tư tưởng về vấn đề tái sinh cũng đã có xuất hiện từ thời
Chúa Jésus.

”Nicodem thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở
lại bụng mẹ và sanh lại lần thứ hai sao?

Chúa Jésus đáp: … Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với người: Các ngươi
phải sanh lại. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động nhưng chẳng
biết gió từ đâu đến, và cũng không biết đi đâu… Quả thật, quả thật, ta nói
cùng người, ta nói điều mình biết, xác quyết điều mình đã thấy. Còn các
ngươi chẳng hề nhận lấy lời chứng của ta. Ví bằng ta nói các việc thuộc về
đất (cụ thể) các ngươi còn chẳng tin, huống hồ ta nói các việc thuộc về trời
(trừu tượng) thì các ngươi tin sao được…” (Jean).

Tuy nhiên, tư tưởng này không được khai triển tiếp và vấn đề tái sinh trở
nên rất xa lạ với người Thiên Chúa Giáo.

Đối với luật Nghiệp Báo thì luân hồi tái sinh là một điều khẳng định.

Tất cả đều thay đổi biến dị. các sinh vật đều đi theo những giai đoạn giống
nhau. Phát sinh, tăng trưởng, già nua và chấm dứt sự sống. Cây cỏ cũng vậy
và động vật cũng vậy. Tuy nhiên trong đó, nghiệp được hình thành không đơn
giản giống nhau. Ví dụ, một tia sét đánh chết một người khác với tên cướp
giết chết một người. Tia sét không có tâm. Nó chỉ là hiện tượng vật lý đơn
thuần và phát sinh do nhiều điều kiện như nhiệt độ, sự va chạm các luồng
điện tích khác chiều (âm và dương) trong các đám mây. Ngoài những điều kiện
vật lý, nó còn bị chi phối bởi luật Nghiệp Báo trong Bản Thể. Do người kia
đến lúc phải thọ quả báo nên nghiệp lực vô hình thúc đẩy các điều kiện vật
lý tụ hội lại đúng lúc. Ở đây chỉ có người thọ quả báo mà không có ngư
ời gây Nghiệp Báo.

Như vậy, trong định nghĩa thứ nhất, nghiệp là hành vi (hay lời nói, ý nghĩ)
được tạo nên từ một chủ thể có cố tâm và có ý thức rõ rệt. Một cành cây khô
rớt trúng đầu người bộ hành, cành cây khô này không có cố tâm và không có ý
thức nên nó không có tạo nghiệp, chỉ là người bộ hành thọ quả báo mà thôi.

Một viên đạn làm gãy cánh tay của cô gái. Viên đạn không có cố tâm nên không
có nghiệp. Nhưng chính người lãy cò có chủ tâm, có ý thức thì nghiệp đã hình
thành.

Rồi một người bị bệnh tâm thần, trong cơn khủng hoảng đã giết vợ của mình.
Có nghiệp hay không ? Theo luật pháp xã hội thì nếu có đủ chứng cứ về bệnh
trạng, đương sự được miễn trách nhiệm hình sự, nghĩa là coi như không có
tội. Nhưng theo luật Nghiệp Báo thì rõ ràng trong khi giết vợ, hắn biết rất
rõ việc mình làm và có chủ tâm. Cơn khủng hoảng tâm thần và cơn nóng giận
giống nhau, chỉ khác mức độ. Người trong cơn nóng giận giết người và người
trong cơn bệnh tâm thần giết người, trạng thái tâm lý có chủ tâm và có ý
thức giống nhau. Họ biết rõ việc mình làm và quyết làm cho bằng được. Như
vậy nghiệp đã hình thành !
Tuy nhiên, bệnh tâm thần là bệnh do nghiệp từ quá khứ. Khi bệnh đã hình
thành, những tâm lý bất thường như muốn giết người, muốn đốt nhà cứ bí mật
khởi lên mà ý thức không kềm được. Đôi khi ý thức còn chạy theo ý muốn kỳ lạ
đó để tăng sức mạnh cho nó. Và khi có ý thức tham gia, nghiệp hình thành.

Trong bộ truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung tiên sinh, nhân vật Cừu Thiên
Nhậm là một kẻ ác đã giết nhiều người, sau này theo xuất gia với Nhất Đăng
đại sư Đoàn Nam Đế. Nhưng dù đã thọ sát giới, Cừu Thiên Nhậm thỉnh thoảng
vẫn bị tập khí cũ khởi lên mãnh liệt là muốn giết người. Những lúc đó ông tự
trói mình lại để đề phòng ý thức không kềm được, đã thuận theo tập khí và ra
tay giết người. Cơn khủng hoảng khởi lên dằn vặt con người ông dữ dội. Nhất
Đăng đại sư chỉ đứng một bên ân cần khuyên bảo để giúp cho ý thức của ông đủ
sức mạnh kềm chế tập khí cũ. Sau nhiều lần ý thức chiến thắng được tập khí
cũ, ông trở nên hiền lành như một tu sĩ bình thường, tập khí không còn khởi
lên nữa.

Cũng vậy, người bệnh tâm thần do cấu trúc của não bất bình thường (bẩm sinh
hoặc chấn thương hoặc khủng hoảng) nên ý thức yếu đuối không kềm chế được
những thôi thúc ác độc từ trong vô thức tuôn ra. Rồi ý thức thuận theo để
gây nghiệp. Nếu người nào biết tu thiền, biết tách đôi ý thức tỉnh giác khỏi
những ý nghĩ vọng động kia, không cần kềm chế cũng không thuận theo, chỉ
lặng lẽ nhìn thấy rõ những ý nghĩ khởi và diệt như là nhìn một đối tượng bên
ngoài, thì những ý nghĩ bệnh hoạn ác độc sẽ lu dần và hết hẳn. Ví dụ, từ
trong vô thức bệnh hoạn, một ý nghĩ khởi ra là phải đốt nhà hàng xóm; Ý thức
bình tỉnh nhìn thấy ý nghĩ đó như là một đối tượng xa lạ, giả dối, nên không
thuận theo, và ý nghĩ đó tự biến mất.

Có một tu sĩ trước kia rơi vào trạng thái tâm thần kỳ lạ. Thỉnh thoảng, từ
trong vô thức, những thôi thúc bí mật khiến thầy phải đánh đá dữ dội, múa
những bài quyền chưa từng học, ý nghĩ “đánh nó! giết nó!” vang vang đầy cả
đầu y như một chiến sĩ đang đánh với quân địch ngoài chiến trường. Nhưng nhờ
hiểu thiền, thầy cứ cố gắng ý thức tỉnh giác, không chạy theo những tâm lý
quái đản bí mật kia. Lâu dần bệnh chấm dứt. Không có ý thức chạy theo để gia
tăng sức mạnh. tập khí cũ yếu dần.

Như vậy, một ý nghĩ bất chợt, rời rạc từ đâu khởi lên thì chưa thành nghiệp.
Nhưng một khi có ý thức nhập cuộc, chạy theo, thì nghiệp thành hình. Và
nghiệp có mặt thì quả báo đã xuất hiện ngay theo đó – từ trong Bản Thể.

Bây giờ trường hợp một người trong cơn mộng du, ý thức hoàn toàn vắng mặt,
chỉ có vô thức điều khiển hành động, đã giết người. Có nghiệp hay chăng?
Trong trạng thái hiện tại, hành động của người này giống như một cái máy vô
tư, không có ý thức, chỉ có vô thức trực tiếp điều khiển cơ thể hành động.
Nhưng từ đâu vô thức hướng đến hành vi giết người ? Chính vì trước kia (kiếp
này hoặc kiếâp khác) ý thức người đó đã nuôi nấng những ý nghĩ thù hận mưu
hại… Những ý nghĩ này sôi sục nhưng bị đè nén lại bị ghi giữ trong vô
thức. Đến lúc chín muồi, khi ý thức vắng mặt, vô thức đã trỗi dậy để hành
động. Như vậy, tuy trong lúc giết người, ý thức không có, nhưng trước kia ý
thức đã có ý muốn giết người rồi. Nghiệp vẫn được hình thành bởi
ý thức trước đó c

Rồi một người vô ý ném tàn thuốc vào một giỏ rác, hậu quả là lửa thiêu rụi
mấy chục căn nhà và vài nhân mạng. Người này không cố tâm, không biết được
hậu quả sẽ như thế nào. Có nghiệp hay không ? Trước hết, đây là quả báo của
những gia đình kia đến lúc phải trả. Nhưng sẽ hoàn toàn không có nghiệp mới
nếu đó là một cơn gió mạnh bất ngờ thổi văng cây đèn dầu xuống sàn nhà rồi
lửa bốc cháy. Ở đây ngọn lửa bốc từ hành vi của một người. Người này không
có mục đích gây nên hậu quả cháy nhà, nhưng sự ngu dốt, sự bất cẩn của anh
ta đã gây nên hậu quả đó. Nếu xét cho kỹ ta sẽ thấy sự bất cẩn của anh phát
sinh từ sự thiếu tôn trọng mọi người. Do thiếu tôn trọng mọi người nên anh
ta thờ ơ với việc kiểm soát hậu quả của mình có gây thiệ
t hại cho mọi ngườ
Tuy nhiên, có những trường hợp không thể nào biết trước và không cần phải
biết trước. Luật hình sự Việt nam cũng không truy cứu trách nhiệm hình sự
trong trường hợp này. Ví dụ một người lái xe trên đường, tuân thủ đầy đủ
luật lệ giao thông. Bất ngờ trong căn nhà lề đường có hai vợ chồng đang gây
gỗ; người chồng rượt đánh vợ khiến người vợ vụt chạy ngang ra đường. Xe đụng
phải ! Không ai có thể biết trước chuyện này và không cần phải biết trước.
Người lái xe không có tạo nghiệp, chỉ là gặp rắc rối chút đỉnh về việc điều
tra của công an. Nghiệp thuộc về người chồng thô bạo.

Có rất nhiều nghiệp khó biết vì thiếu kiến thức như việc phá hủy môi trường
sống của Địa cầu. Người tiều phu tàn phá rừng không thương tiếc, người chủ
xí nghiệp cho khói bay mịt mù vào không gian; Người nông dân cho thuốc trừ
sâu vào nước ruộng khiến các loài thủy sinh vật chết sạch; y học cho sử dụng
thuốc DDT tràn lan rồi mấy chục năm sau mới thấy hậu quả tai hại của nó.

Trong truyện ngắn nổi tiếng “Bút Máu” của nhà văn Vũ Hạnh, nhân vật Lương
Sinh vì không hiểu hết sự tình, bị viên quan tổng trấn họ Lý mua chuộc khéo
léo nên đã dùng thơ văn ca ngợi công đức của hắn. Nhờ thế tên tổng trấn
thoát được cuộc thanh tra của triều đình vì quan thanh tra tin vào văn thơ
của Lương Sinh hơn là đơn tố cáo của người dân. Sau khi quan thanh tra ra
về, Lý tổng trấn cho bắt giết sạch những ai đã tố cáo hắn. Cách đó hơn trăm
dặm Lương Sinh lâm bệnh, thấy như vô số oan hồn về báo oán. Sinh cầm đến bút
mực thì mực trở màu đỏ như máu tươi và bốc mùi tanh tột độ. Sinh không biết
oan trái này đến từ đâu. Sau nhờ sự góp ý của người cậu, Sinh lặng lẽ tìm về
vùng đất ghé chơi ngày trước của tổng trấn họ Lý để tìm hiểu, mới biết rằn
g ngòi bút của mình

Sinh tạo nghiệp vì “thiếu hiểu biết”, lỡ ca ngợi một tên quan ác độc nhiễu
hại dân lành khi chưa tìm hiểu cặn kẽ vấn đề. Trong khi dân tình lầm than
đang đệ đơn tố cáo lên triều đình, quan thanh tra đang đi đến tìm hiểu, thì
những bài thơ của Sinh như một bờ lũy bảo vệ ngôi vị của tên tổng trấn để
hắn tiếp tục gây tội ác. Sinh không cố ý, nhưng đã góp phần tạo nghiệp. Cái
thiếu hiểu biết rồi tạo nghiệp cũng giống như cái thiếu kiến thức gây ô
nhiễm môi trường. Tùy theo hậu quả nặng nhẹ mà quả báo sẽ lập thành một cách
thích ứng. Gần đây trên báo chí cũng nêu ra một số vị giám đốc cơ quan kinh
doanh nhà nước, vì thiếu kiến thức đã gây thiệt hại cho công quỹ nhiều tỷ
đồng.

“Thiếu hiểu biết” cũng là một trong những nguyên nhân gây tội.

Người lãnh đạo một tập thể, một đất nước mà thiếu hiểu biết, gây thiệt hại
cho người dưới, quả báo sẽ rất nặng nề.

Như vậy, những hành vi, lời nói, ý nghĩ được gọi là nghiệp (có khả năng tạo
thành quả báo) khi:

– Có cố tâm, có ý thức, có dự tính.
– Có cố tâm, có ý thức trong cơn khủng hoảng do nóng giận, khủng hoảng do
tâm thần.
– Không có ý thức lúc hành động, do vô thức điều khiển, nhưng có ý muốn
trước kia.
– Không cố tâm, nhưng thiếu hiểu biết gây hậu quả nghiêm trọng.

Hành động với một trong bốn trường hợp đó được xem đủ tiêu chuẩn để tạo
thành nghiệp, và mỗi nghiệp liền có một (hay nhiều) quả báo tương xứng, có
một (hay nhiều) Duyên tương quan, và TẬP HỢP TOÀN BỘ quả báo, nhân duyên đó,
chúng ta có được một bức tranh rõ nét về các kiếp sống tiếp theo.

Việc hình thành một cuộc đời về sau rất là phức tạp. Ví dụ, ông Thanh có đủ
duyên để sau này làm cha của anh Tâm. Nhưng kiếp kế tiếp quả báo dành cho
ông Thanh là người giàu mà quả báo dành cho anh Tâm là sinh trong gia đình
nghèo. Có duyên với nhau mà phước không đồng nên duyên cha con đành khất lại
kiếp khác, lúc mà phước của họ tương xứng với nhau.

Phải chọn lựa toàn bộ tội phước của mọi người, nhân duyên giữa mọi người rồi
mới lắp ráp tất cả lại, thật ăn khớp để hình thành những kiếp sống kế tiếp.
Công việc này của luật Nghiệp Báo còn hơn cả khả năng của một máy siêu điện
toán tối tân nhất.

Mỗi chặng thời gian ở kiếp sau, chúng ta sẽ gặp gỡ những ai, sẽ thăng trầm
vui khổ thế nào, thành công thất bại ra sao, tư tưởng bị chuyển biến thế
nào… đều có liên quan đến nhiều người. Cho nên việc hình thành một bức
tranh kiếp sau của một người phải là sự phối hợp với vô số nhân duyên của
những người khác. Chỉ có luật Nghiệp Báo ở Bản Thể mới đủ sức, vừa tịch
lặng, vừa chặt chẽ, điều động toàn bộ công việc đó.

Thật ra, chính chúng ta, qua trung gian luật Nghiệp Báo, đã tự vẽ lấy bức
tranh cuộc sống ở kiếp sau của chính mình. Mỗi nghiệp là một nét vẽ, một vết
mực điểm lên dần dần để hoàn thành bức tranh đó. Một lời nói thiện vừa buông
ra, lập tức một niềm vui đã hình thành cho kiếp sau. Một hành vi ác vừa thực
hiện xong, lập tức một nỗi khổ đã có mặt cho kiếp sau. Đời sống ở kiếp sau
với bao nhiêu khổ đau và hạnh phúc, cay đắng và vinh quang đã hình thành
xong từ kiếp trước.
Chúng ta sẽ sinh vào gia đình nào với cha mẹ, anh chị em, thân quyến, láng
giềng… Chúng ta sẽ có bạn bè nào, học ở trường lớp, đạt được bằng cấp, giữ
những địa vị… Chúng ta sẽ trải qua những cơn bệnh, những tai nạn, sẽ đón
nhận những dịp may, những lời khen… Tất cả đều đã sắp sẵn bởi nghiệp của
đời trước, không có gì là ngẫu nhiên.

Đời sau đã có đủ chi tiết bởi nghiệp đời trước.

Có một vài lý thuyết, cũng tin vào sự tái sinh, nhưng lại cho rằng sau khi
chết, thần thức mọi người thoát ra khỏi thân và lang thang đi tìm bào thai
để nhập vào. Điều này không đúng! Không hề có sự lựa chọn tìm tòi ở thân đời
sau, bởi vì thân đời sau đã có sẵn, có sẵn gần như một định mệnh. Nhưng định
mệnh này không phải do thần linh quy định mà do chính con người tự tạo lấy.

Ví dụ một người hiện ở Việt Nam, nhưng toàn bộ nghiệp và duyên mà anh ta đã
tạo đã sắp sẵn cho anh một kiếp sau ở Ấn Độ. Sau khi bỏ thân ở Việt Nam, sự
sống mới được thành lập tiếp theo tại Ấn Độ. Không có vấn đề đi tìm kiếm gì
cả.
Ở đây, chúng ta phân biệt hai loại nghiệp.

– Ý nghiệp tức là những tư tưởng, những ý muốn chưa khởi ra hành động và lời
nói, chưa có tác dụng vào mọi người chung quanh một cách cụ thể, chỉ có sự
lây nhiễm vô hình vào tâm hồn người khác một cách yếu ớt mà thôi.

Thân nghiệp và khẩu nghiệp (hành vi và lời nói) có tác dụng vào mọi người
chung quanh một cách cụ thể, làm cho họ vui buồn, lợi ích hay thiệt hại.
Thân nghiệp và khẩu nghiệp vì có tác dụng với mọi người nên nó là một loại
nghiệp rõ nét, có đủ sức để tạo thành một quả báo vui khổ về sau.

Một người làm ăn cướp giết người. Nghiệp cụ thể này tạo thành quả báo nghèo
khổ chết thảm về sau.

Một người làm việc từ thiện, giúp đỡ trẻ em mồ côi, giúp đỡ người bị thiên
tai, giúp đỡ những bậc chân tu… Nghiệp cụ thể này tạo thành quả báo vinh
quang huy hoàng về sau.

Một viên chức nhà nước tận tụy phục vụ nhân dân, luôn hoàn thành trách nhiệm
một cách chu đáo. Quả báo về sau là địa vị lớn hơn nữa.

Người tu sĩ chuyên thuyết pháp giáo hoá đạo đức cho mọi người. Nghiệp cụ thể
này tạo thành quả báo làm thánh hoặc ở địa vị xã hội cao có nhiều thuộc hạ
tài giỏi, đạo đức cộng sự.

Thân nghiệp và khẩu nghiệp vì có tác dụng với mọi người nên nó là NGUYÊN
NHÂN tạo nên QUẢ BÁO khổ vui về sau. Tuy nhiên, thân nghiệp và khẩu nghiệp
lại chính là kết quả của ý nghiệp. Ý nghiệp là NGUYÊN NHÂN của thân khẩu
nghiệp. Tâm có nghĩ thì miệng mới nói, tay mới làm. Điều này ai cũng biết vì
nó rõ ràng trong đời sống. Tuy nhiên, trong luật Nghiệp Báo, ý nghĩ của đời
này tạo thành hành vi và lời nói ở đời sau. Tại sao kẻ kia chọn nghề ăn cướp
giết người ? Vì đời trước hắn đã suy nghĩ, khởi ý muốn về vấn đề này rất
nhiều.

Tại sao ông nọ thích làm việc từ thiện ? Vì đời trước ông đã suy nghĩ, ham
thích về việc này rất nhiều.

Tại sao người kia trở thành tu sĩ ? Đời trước ông đã đầy ắp tư tưởng từ bỏ
trần thế bụi bặm.

Hành vi của một người là kết quả của tư tưởng đời trước. Đó là lý do tại sao
chúng ta khó chuyển hóa nhân cách của một người. Nhiều gia đình có giáo dục
nề nếp, nhưng vẫn lọt những đứa con ngỗ nghịch độc ác, dạy gì cũng không sửa
đổi. Vì sao? Vì hành động đời này của nó là kết quả của tư tưởng đời trước.
Thành ngữ Việt nam có câu “Cha mẹ sinh con Trời sinh tánh” để nói lên cái
bất lực trong việc dạy dỗ một người. Có những người dường như đã đầy đủ đạo
đức từ trong bụng mẹ. Có những người đã độc ác từ khi chưa chào đời. Cũng có
những người lững lờ không có lập trường rõ rệt. Tất cả nhân cách đó đều do
tư tưởng đời trước tạo thành.

Muốn chuyển hóa nhân cách một người, chúng ta phải thông minh, có phương
pháp và rất cực nhọc vì phải gieo những tư tưởng mới để xóa hết những tư
tưởng cũ đã bắt rễ quá sâu. Giáo dục đạo đức là việc có thể làm được, nhưng
rất khó khăn.

Một vài người cho rằng nhân cách, tư tưởng, khuynh hướng của một người là do
hoàn cảnh xã hội tạo nên. Điều này chỉ đúng một phần nhỏ. Sự hình thành lớn
nhất của nhân cách là do tư tưởng từ kiếp trước tạo ra.

Nếu chúng ta muốn có một nhân cách phi thường ở đời sau, thì ngay bây giờ
hãy nuôi dưỡng kỹ lưỡng những tư tưởng cao thượng, loại trừ những tư tưởng
thấp hèn. Hãy luôn luôn nghĩ đến việc yêu thương tất cả mọi người. Hãy tâm
niệm dù đứng trước hiểm nguy, nghịch cảnh cám dỗ vẫn không bao giờ từ bỏ đạo
đức. Hãy khởi ước vọng đạt được thiền định thâm sâu. Hãy phát nguyện sẽ mang
chân lý đi lang thang trong luân hồi để giáo hóa mọi người không mệt mỏi…
Còn những tư tưởng ích kỷ, thù hận hãy nghiêm khắc loại trừ.

Ví dụ, người có tính nóng nãy, mỗi khi gặp việc trái ý, bây giờ muốn không
còn nóng nãy nữa, thì khi còn bình tĩnh chưa gặp việc trái ý, hãy tự nhủ với
lòng sẽ giữ bình thản dù cho có người chửi mắng, dù cho mọi người không làm
đúng theo ý mình… Khi thường xuyên tự nhủ như vậy, bất ngờ gặp việc trái
ý, tâm ta sẽ bình thản hơn xưa.

Như vậy, thân nghiệp và khẩu nghiệp tạo thành kết quả khổ vui ở đời sau, còn
ý nghiệp tạo thành nhân cách ở đời sau. Kết hợp cả hai loại kết quả này –
khổ vui và nhân cách – chúng ta có một bức tranh ở đời sau khá rõ nét.

Có người cho rằng thân, khẩu, ý nghiệp luôn luôn đi đôi. Nếu người nào làm
việc thiện, nói lời thiện chỉ vì tâm hồn họ suy nghĩ điều thiện. Ba nghiệp
đều thiện thì ắt hẳn đời sau họ vừa sung sướng, vừa có nhân cách khả kính.
Sự thực không đơn giản như vậy! Chúng ta thấy nhan nhãn trong cuộc đời,
nhiều người rất giàu có, quyền quý nhưng lại ác độc, ích kỹ; cũng có người
nghèo khổ nhưng tốt bụng độ lượng. Kết quả như vậy bởi vì thân khẩu nghiệp
làm một đường mà ý nghiệp nghĩ một nẻo.

Ví dụ một nhân viên vì tuân thủ mệnh lệnh cấp trên và phấn đấu để thăng
chức, đã siêng năng tổ chức việc xây dựng một cây cầu lớn. Hành vi lợi ích
cho mọi người này đem đến cho ông một đời sống thoải mái ở kiếp sau. Tuy
nhiên, ý ông nghĩ khác, ông chỉ lo cho ông mà thôi. Kiếp sau trong hoàn cảnh
sung túc, ông vẫn là con người ích kỹ.

Nếu nói rằng thân khẩu nghiệp là nguyên nhân của hoàn cảnh khổ vui ở kiếp
sau thì ý nghiệp chính là nguyên nhân cho thân khẩu nghiệp. Nếu kiếp này
chúng ta thường làm việc từ thiện chỉ bởi vì kiếp trước chúng ta đã suy nghĩ
về việc này rất nhiều. Như vậy, ý nghiệp là nguyên nhân của thân khẩu
nghiệp. Thân khẩu nghiệp là nguyên nhân của hoàn cảnh.

Ý nghiệp > Thân khẩu nghiệp > Hoàn cảnh.

Chúng ta vẫn còn đang sống ở kiếp này nhưng đang tự tay vẽ ra dần dần bức
tranh ở đời sau cho mình. Bức tranh của đời sau đó được gọi là HỮU trong
giáo lý Mười hai nhân duyên.

Giáo lý Mười hai nhân duyên thuyết minh rằng HỮU dẫn đến SINH (… Ái duyên
Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh… ).

Có Hữu rồi mới có sự tái sinh ở đời sau. Khi chúng ta đã tạo ra đủ nghiệp
duyên cho đời sau, đã vẽ xong bức tranh của kiếp kế tiếp. Đó cũng là lúc
chúng ta chấm dứt sự sống này để bước qua sự sống mới. Kiếp sau không còn gì
để lựa chọn nữa, nó đã được quy định rõ ràng từng chi tiết nhỏ rồi ! Thế nên
sự sống tâm linh sau khi chết không phải là yếu tố quan trọng cho tái sinh
Tuy nhiên, như đã nói khi chấm dứt cuộc sống này, chúng ta lập tức “bước
sang” cuộc sống kế tiếp. Vậy cái gì “bước sang” có phải một linh hồn, một
thần thức gì đó chăng? Có phải một thần thức đã rời thân này nhập vào thai
kia để nối liền hai kiếp sống với nhau chăng ?

Trong kinh tạng Nikàya nguyên thủy, Đức Phật nói rằng “Chết ở đây và sinh ở
kia.”

Câu nói đơn giản này cần được giải thích thêm bởi cái lý luận của người sau.
Có người cho rằng phải hiểu ý nghĩa của câu nói đó là khi một người vừa trút
hơi thở ở đây, cũng là lúc vừa lọt lòng mẹ bên kia. Lời giải thích này có
một điểm hở là như vậy, thời gian ở trong thai là người nào ? Không lẽ bào
thai chưa phải là một mọi người sao ?

Abhidhamma giải thích rằng: “Khi tử tâm tối hậu chấm dứt, lập tức kiết sinh
Thức tối sơ xuất hiện”, tâm thức cuối cùng của Thân cũ vừa hết thì một tâm
thức ban đầu vừa hình thành ở thân mới.

Như vậy, tâm thức vừa mất ở thân này, lập tức xuất hiện ở thân sau. Hay nói
rõ hơn, sự sống vừa chấm dứt ở thân này, lập tức một sự sống mới vừa xuất
hiện ở thân sau. Một người vừa chết ở thân này, ngay lúc đó tinh trùng của
cha lọt vào tiểu noãn của mẹ để cho một bào thai được hình thành. Sự sống
được nối tiếp không một sát na gián đoạn.

Không cần có một tâm thức nào để nhập vào thai kia, vì thân sau đã có sẵn
trong Nhân Quả Nghiệp Báo. Trường hợp đời sống tâm linh hiện hữu sau khi
chết một thời gian nào đó, nó sẽ tắt mất khi bào thai của thân sau vừa thành
hình. Khi tinh trùng cha vừa lọt vào tiểu noãn mẹ, lập tức thần thức cũ tan
biến.
Trên không gian vật lý, hai kiếp sống bị ngăn cách bởi một khoảng không gian
khá xa. Có thể người chết ở Việt Nam và tái sinh ở Thụy Điển, chết ở Trung
Hoa và tái sinh ở Nam Dương… Chính vì bị cái khoảng cách của không gian
vật lý “bịt mắt” nên người ta không thấy được sự liên tục của dòng sống, cứ
tưởng là hễ bị ngăn cách bởi không gian thì sự sống cũng phải gián đoạn
theo. Có một sự tồn tại của đời sống tâm linh sau khi chết tùy theo nhân
duyên của mỗi người. Có người vừa chấm dứt sự sống ở thân này liền lập tức
hiện diện ở bào thai mới. Có người lại tồn tại bằng một sự sống tâm linh
thêm một khoảng thời gian nữa.

Xét về phương diện thời gian, hai kiếp sống là liên tục không gián đoạn. Còn
về phương diện không gian vật lý, có một khoảng cách nhất định giữa hai kiếp
với nhau. Sự sống Tâm linh sau khi chết vẫn thuộc về kiếp trước.

Ở không gian vật lý, khoảng cách xa và gần là một phạm trù có ý nghĩa quan
trọng. Để đi từ Moskva đến Tokyo, con người cần nhiều phương tiện tốn kém.
Nhưng đối với luật Nghiệp Báo trong Bản Thể thì khoảng cách đó hoàn toàn vô
nghĩa. Tất cả vị trí không gian đều ở một chỗ mà vẫn không lẫn lộn với nhau.
Thế nên, việc chết ở thân này và tái sinh ở thân sau, dù cho hai thân có xa
nhau cách mấy vẫn không có gì quan trọng đối với luật Nghiệp Báo, không có
gì phải tốn công đi tìm và mất chút thì giờ nào cả. Chỉ vì chúng ta không
hiểu sâu luật Nghiệp Báo, chỉ nhìn theo không gian vật lý nên mới tưởng
tượng rằng phải tốn nhiều công sức để đi từ một vị trí này sang đầu thai ở
một địa điểm khác.
Tuy nhiên, thế nào là chết ?

Chúng ta cần phân biệt hai loại chết: cái chết lâm sàng theo y học và cái
chết thực sự.

Theo y học, biểu hiện lâm sàng của cái chết được đánh giá theo sự ngừng hoạt
động của não, kéo theo là tim ngừng đập, phổi ngừng thở, thân nhiệt hạ dần.
Vì thế đối với bệnh nhân tình nguyện hiến tặng các bộ phận của cơ thể sau
khi chết, các bác sĩ theo dõi sự hoạt động của não, nếu thấy não vừa dừng
hoạt động là lập tức họ cho giải phẫu cơ thể để lấy đi các bộ phận còn tốt
rồi đem ghép với những bệnh nhân khác. Đó là cái chết lâm sàng.

Nhưng giữa cái chết lâm sàng và cái chết thực sự có một khoảng cách khá xa.
Chết nghĩa là đình chỉ hoàn toàn mọi hoạt động của sự sống, trong đó, hoạt
động của não là quyết định, mà hoạt động của não còn có nghĩa là hoạt động
của tâm thức. Hoạt động của tâm thức rất phức tạp. Những hoạt động của ý
thức thì dễ đo được bằng máy móc. Còn những hoạt động của vô thức đã trở nên
“tàng hình” đối với máy móc. Phải là những máy siêu nhạy mới bắt được những
rung động của tâm vô thức. Còn loại tâm thức mà Abhidhamma gọi là tử tâm tối
hậu thì cực kỳ nhỏ nhiệm. Đó là một hoạt động tâm thức cuối cùng để rồi chấm
dứt hẳn. Tâm tối hậu này quá mịn, quá nhỏ, hầu như máy móc hiện đại chưa ghi
nhận được.

Đôi khi một người đã có những biểu hiện của cái chết lâm sàng như người đã
trở lạnh, tim đã ngừng đập, não (phần thô) đã dừng hoạt động. Nhưng thật ra
họ đang chìm trong dạng tâm thức nhỏ nhiệm cuối cùng chứ chưa chấm dứt hẳn.
Theo y học và theo luật pháp, người này đã chết. Nhưng theo định nghĩa về
luân hồi, thì người này chưa chết vì chưa qua cái tử tâm tối hậu. Đôi khi,
từ cái tâm yếu ớt cuối cùng này, bỗng nhiên tâm thức hoạt động mạnh trở lại,
và, họ hồi sinh! Báo chí cũng đăng tải một số đạo sĩ Ấn Độ, Tây Tạng, các bộ
tộc ở Châu Phi có khả năng làm cho người chết sống lại, miễn là đừng chết
quá lâu. Đừng chết quá lâu nghĩa là chưa vượt qua cái ngưỡng tử tâm tối hậu,
còn trong dạng tâm thức yếu ớt gần chết (cận tữ tâm). Rồi
bằng năng lực tâm l

Có một số người trong cơn gây mê để giải phẫu, hoặc bị chấn thương mê man
gần như chết, đã thấy mình thoát ra khỏi thân xác bay đi chơi vơi trong một
thế giới kỳ lạ có nhiều hình ảnh lạ lùng, có những con đường hầm để đi sang
thế giới bên kia. Thậm chí còn có người quay lại nhìn thấy rõ ca giải phẫu
cái xác của mình. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là hiện tượng Near Dead
Experiment – Kinh nghiệm gần kề cái chết. Đối với số người này ý thức bị mê
man, nhưng vô thức còn hoạt động mạnh. Họ chưa chết hẳn nhưng khối tâm linh
đã một lần tách rời khỏi thân vật lý.

Nếu thực sự vượt qua cái ngưỡng tử tâm tối hậu, lập tức một “tâm thức tối
sơ” vừa xuất hiện ở bào thai khác khi tinh trùng của cha lọt vào tiểu noãn
của mẹ. Hai sự kiện này luôn luôn trùng nhau. Tử tâm tối hậu chấm dứt luôn
luôn đồng thời với lúc tinh trùng lọt vào tiểu noãn của mẹ. Một kiếp sống
mới bắt đầu ! Trạng thái tồn tại trong thế giới vô hình vẫn thuộc về kiếp
trước. Khi bắt đầu sự sống ở thai mới, sự sống Tâm linh đó` sẽ biến mất.

Kinh Địa Tạng Trung Hoa cho rằng sau khi chết 49 ngày, người đó mới lọt vào
thai mới. Con số 49 ngày chỉ là biểu tượng, ám chỉ cho thời gian từ cái chết
lâm sàng đến cái chết thực sự. Thời gian này không giống nhau ở mọi người.
Có người từ lúc chết lâm sàng đến lúc chết thực sự chỉ có vài giờ, có người
vài ngày, có người vài tháng. Thậm chí những người tu luyện định lực sâu,
khi chết họ nhiếp tâm trong định, thời gian “cận tử tâm” có thể kéo dài
nhiều năm rồi mới chết hẳn.

Một vài cụ già kinh nghiệm ở miền Bắc Việt Nam cho biết rằng. Khi một người
đã chết (lâm sàng) chờ mãi mà xác họ vẫn không cứng (chết thực sự) để có thể
đem liệm, thì chỉ việc đặt xác họ trực tiếp với đất, xác sẽ lạnh cứng nhanh
sau đó.

Điều này có thể giải thích rằng trong khi cái chết lâm sàng, người này đang
chìm trong cận tử tâm chứ chưa chết hẳn. Não họ vẫn còn tích một ít điện để
nuôi dưỡng sự hoạt động của cận tử tâm. Bây giờ để cơ thể họ tiếp đất tức là
làm cho một ít điện đó xuống “masse” hết hẳn. Không còn điện để hoạt động,
cận tử tâm chấm dứt, người này chết thực sự.

Ngược lại khi thấy người chết rồi mà cơ thể không lạnh cứng, ta phải nghĩ
ngay người này còn trong trạng thái cận tử tâm (NDE – Near Dead Experiment).
Nếu ai có thể truyền sinh lực sang, để tăng cường hoạt động của não, người
này có thể sống lại.

Nhà hiền triết Platon (428-348 trước CN) có thuật chuyện một chiến binh tử
trận, nhưng 10 ngày sau, khi được khiêng xác về nhà, người ta thấy xác đó
vẫn lành lặn không thối vữa, song cứ mang tiếp về bản quán. Tối ngày thứ 12,
lúc gia đình bắt đầu cử hành tang lễ thì người lính bỗng sống lại, tuy không
đủ sức rời xa đống lửa hỏa thiêu. Người lính đó tên là Ehr, con ông
Armerius, quê ở Pamphilic.

Thế kỷ thứ tám, tu sĩ Bede, Anh quốc kể lại một người tên là Canninghame tại
Northambryans đã ngã bệnh, yếu dần yếu dần, cho tới lúc nguy kịch và tắt thở
vào một đêm khuya. Nhưng rạng sáng, anh bỗng nhổm dậy trước sự hoảng hốt của
mọi người đang than khóc quanh giường. Họ bỏ chạy tán loạn. Chỉ có người vợ
rất mực yêu chồng vẫn đứng lại nhưng hãi hùng đến mức toàn thân run bắn lên.

Cựu ước kinh, phần Vua, cuốn 2, chương 4, có kể chuyện tiên tri Élisée
(850-800 trướcCN) đã cứu sống con trai thiếu phụ Sunam.
“Élisée đi vào nhà – Kìa! Thằng nhỏ chết rồi, nằm bẹp trên giường ! Vào hẳn
bên trong, ngài đóng chặt cửa, chỉ còn lại mình với đứa bé […]. Ngài nằm
sấp lên mình đứa trẻ, miệng ấp miệng, mắt ấp mắt, tay ấp tay. Ngài ấp lấy
mình đứa trẻ. Bỗng cơ thể con trẻ vụt ấm lại. Rồi ngài trở xuống, đi tới đi
lui trong nhà, đoạn trèo lên ấp thêm. Bỗng đứa trẻ hắt hơi bảy lần, mở
choàng mắt […] Ngài bảo [bà mẹ]: “Hãy bồng con bà lên”.Bà tới ôm lấy chân
ngài, sấp mình thờ kính, rồi ẳm con trai ra ngoài.

Rõ ràng đây là phương pháp truyền sinh lực làm hồi sinh.

Sử gia Hy Lạp Philostrate (175-249) kể về triết gia Apollonius de Tyane
(khoảng 1 thể kỷ sau CN).

Trong một lần sang Roma, nhà hiền triết bỗng gặp đám tang một trinh nữ thuộc
gia đình thế tộc. Thấy cảnh than khóc, Apollonius động lòng trắc ẩn, bèn
phán: ” Hạ quan tài xuống vì ta có phép làm ngưng những dòng lệ các người
trào tuôn cho người trinh nữ xấu số kia!”. Đoạn, ông hỏi tính danh nàng.
Nhiều người đinh ninh ông định đọc một bài điếu thường được nghe vào những
dịp đưa tang để xoa bớt những buồn thương của thân bằng quyến thuộc. Nhưng
không, Apollonius nâng đầu thi thể trinh nữ dậy, khẻ thì thầm vào tai
nàng… Vậy mà trinh nữ vụt bừng tỉnh, ngơ ngác thốt lên những lời hỏi han,
rồi ngồi dậy, quay về dinh cơ cha mẹ.”

Qua câu chuyện này ta thấy các nhà hiền triết ngày xưa có năng lực tâm linh
rất mạnh, không phải chỉ thuần là kẻ lý luận mà thôi.

Hàng trăm nhân chứng bị chết lâm sàng, về sau được các bác sĩ cứu sống, có
thể xác nhận về trạng thái tâm linh gần chết (cận tử tâm). Tiến sĩ Raymond
Maudy trong cuốn “Sống lại sau khi tắt thở” (mới công bố gần đây) đã đưa ra
hàng trăm lời tường thuật của các ca tương tự. Họ cho biết họ nghe rõ hết
những lời trao đổi của các chuyên gia và thân nhân, cảm nhân được đầy đủ
những biến cố kề cận mình trong thời gian nằm tại phòng hồi sức.

Một bác sĩ kiêm nhà du lịch Mỹ George Wright viết trong cuốn “nhân chứng của
các pháp thuật” (1970) từng tận mắt chứng kiến tại Benin (Phi Châu) một ca
hồi sinh.

“Một người chẳng còn dấu hiệu nào của sự sống nằm ngữa trên mặt cát.
Tôi nhờ một bạn đồng hành người địa phương đưa tới bên anh ta rồi nói: “Tôi
là một thầy thuốc. Tôi muốn được khám nghiệm để biết đích xác anh ta đã chết
hẳn chưa?” Họ vui vẻ nhận lời. Tôi ngồi xuống vạch mí mắt người chết, thử
phản xạ đồng tử theo phương pháp Argyll-Robinson. Mắt vẫn đờ đẫn và tim hoàn
toàn ngừng đập… Rồi viên pháp sư vẫy tay ra hiệu cho đám đông bắt đầu cất
tiếng ca hát. Âm hưởng điệu hát nửa như kêu gào, nửa như nức nở khóc than.
Họ hát mỗi lúc một nhanh thêm, một cao giọng hơn. Dường như những âm điệu đó
cũng được chính người chết nghe thấy hết. Tôi sững sờ bởi chưa bao giờ chứng
kiến chuyện tương tự trong đời.

Người chết vụt đưa tay lên vuốt ngực, cố nghiêng người lại. Tiềng la hét của
đám đông bỗng hóa thành tiếng rú dài. Trống chiêng bắt đầu khua vang, càng
lúc càng gấp gáp hơn. Rốt cuộc, người chết trở mình được, gập hai chân lại,
rồi thong thả nhỏm dậy, ngồi xổm trên cát. Hai mắt anh ta vài phút trước đây
còn đờ đẫn khi bị chiếu thẳng đèn pin vào, giờ bỗng mở to nhìn chòng chọc
vào đám người vây quanh…”

Dân Benin còn cho G.Wright biết thêm các thuật sĩ xứ họ có thể hồi sinh
nhiều người, miễn là kẻ xấu số chưa chết quá lâu. Nhiều người da trắng cư
ngụ lâu năm ở đó đã công nhận hoàn toàn lời họ, vì nghi lễ kia tháng nào
cũng có cử hành.

Ở đây, không phải âm thanh làm cho người chết sống dậy, mà chính là ước muốn
chủ quan mạnh mẽ của mọi người, tức là năng lực tâm linh, đã làm thức dậy
một não bộ đang yên nghỉ ở cận tử tâm. Tuy nhiên, điều lạ là tại sao nằm
trên cát mà họ không bị mất đi phần điện ít ỏi cuối cùng như ở Việt Nam.
Cũng có một số người trong thời gian cận tử tâm thấy đi dạo chơi ở địa ngục
(chứ không bị hành hạ) hoặc dạo chơi ở thiên đường gặp các vị thánh ngày
xưa. Đến khi hồi sinh họ kể lại điều đã thấy và làm tăng thêm niềm tin về
thế giới siêu hình cho mọi người.

THÂN TRUNG ẤM

Trong Phật Giáo Đại Thừa, khái niệm Thân Trung ấm được nêu ra để chỉ cho
giai đoạn mà một người đã chết, sự sống nơi thân vật lý không còn tồn tại,
nhưng tồn tại một sự sống trong thế giới vô hình. Cái Ngã nơi Thân Trung ấm
này cũng vẫn là cái Ngã nơi sự sống lúc còn gắn nơi thân vật lý. Trước khi
chết người này là Đậu, con ông Xoài, thì ở Thân Trung ấm người này vẫn thấy
mình là Đậu con ông Xoài. Cho đến khi duyên đã hết, phải sinh về một kiếp
khác, Thân Trung ấm tan biến, sự sống thành hình ở bào thai mới, lúc đó cái
Ngã cũ chấm dứt hoàn toàn. Cái giây phút mà Thân Trung ấm tan biến luôn luôn
đồng thời với cái lúc tinh trùng cha lọt vào noãn của mẹ. Abhidhamma thuộc
Kinh Tạng Nguyên Thủy gọi là “khi Tử tâm tối hậu chấm dứt thì Kiết sinh thức
tối sơ
xuất hiện”. Cái N

Do nghiệp đã tạo sẵn nên kiếp sắp tới của một người sẽ sinh vào gia đình nào
là điều chắc chắn, không có gì thay đổi được nữa. Lúc tử tâm tối hậu chấm
dứt cũng là lúc tinh trùng lọt vào noãn sào và một kiếp sống mới bắt đầu
trong hình thức một bào thai nhỏ bé mà mắt thường không thể trông thấy.

Trong 500 triệu tinh trùng của người cha, có những tinh trùng chỉ mang nhiễm
sắc thể X, nếu kết hợp với tiểu noãn sẽ cho ra một bào thai nữ; có những
tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y, nếu kết hợp với tiểu noãn sẽ cho ra một bào
thai nam. Nhưng do nghiệp của chính người đó sẽ mang thân nam hay nữ nên
khiến cho tinh trùng loại nào sẽ lọt vào tiểu noãn.

Lúc tiểu noãn thụ tinh, các nhiễm sắc thể (chromosome) của tinh trùng và của
trứng phối hợp thành 46 cái, một số lượng cần thiết để sự sống có thể xuất
hiện. Con người, lúc bấy giờ mặc dù chỉ là một tế bào, nhưng định mệnh đã
bao trùm lấy nó, vì những nhiễm thể của người cha và người mẹ đã định đoatï
giới tính, màu tóc, màu mắt cũng như vóc dáng của hài nhi tương lai. Cũng
chính nhiễm thể này khiến trẻ con sẽ được sinh ra trở thành một vĩ nhân hoặc
một kẻ ngu đần.

Những nhiễm sắc thể có hình xoắn giống một dây ngọc hoặc một dây có thắt nơ
và chứa hàng nghìn phân tử di truyền (gènes), cấu tạo bởi Acid Désoxyribo
Nucleic (ADN), một chất hóa học chứa đựng bí mật về sự sống và sự sinh
trưởng của con người. Hiện nay các nhà khoa học đang tìm cách giải mã từng
gène để biết được nhiệm vụ của chúng một cách chắc chắn.

Những nhiễm sắc thể chứa hàng ngàn phân tử di truyền, có nhiệm vụ rõ rệt
trong từng giai đoạn, trong việc sinh trưởng. Mỗi phân tử di truyền tự hoạt
động riêng rẽ hoặc cộng tác với phân tử di truyền khác. Một số phân tử di
truyền ấn định màu mắt, một số khác ấn định về màu da và một số nữa ấn định
chiều dài của xương.

Con người hưởng thụ 1/2 số lượng nhiễm thể của cha và 1/2 của mẹ (tổng cộng
46). Sự kiện này là nguồn gốc của sự khác biệt giữa những cá thể trong nhân
loại.

Khi những cặp nhiễm thể của tiểu noãn được phân làm hai, sự ngẫu nhiên (theo
luật Nghiệp Báo bí mật chi phối) sẽ định đoạt nhiễm thể nào của mỗi cặp sẽ ở
lại, và nhiễm thể nào sẽ bị loại bỏ. Do đó người phụ nữ có thể truyền lại
cho con mình màu mắt, trí khôn đã thụ hưởng từ tổ tiên và cả bệnh tật. Và
cũng chính sự ngẫu nhiên theo nghiệp sẽ phân chia và chọn lựa nhiễm thể của
người cha. Tất cả đều diễn biến tương tự một cuộc xổ số vĩ đại vì những
nhiễm thể của tiểu noãn và của tinh trùng có thể được phân chia theo tám
triệu kiểu khác nhau.
Chính nghiệp của đứa bé đã sắp xếp cuộc tạo dựng nhỏ nhiệm và quan trọng
này.

Đầu tiên, nghiệp của đứa bé đã quy định nó sẽ làm con của bậc cha mẹ nào để
có thể nhận lấy tính di truyền về sức khỏe, trí khôn, hình dáng của dòng họ
đó. Rồi nghiệp tiếp tục chi phối sự phối hợp, phân chia các gène để cho nó
có những tính chất khác hẳn anh chị em của nó.

Nếu đời trước nó thường chăm sóc sức khỏe cho mọi người, hoặc dùng sức lực
để làm việc thiện, thì nội việc chọn lựa các gène, nó sẽ thừa hưởng được các
gène tạo thành sức khỏe tốt.

Nếu đời trước nó hay truyền đạt kiến thức, dạy học tận tâm, xây cất trường
học, thì bây giờ nó được hưởng các gène tạo nên bộ óc thông minh.
Nếu có nhiều phước, nó được sinh trong gia đình giàu có, từ nhỏ đã đầy đủ
tất cả.

Ở đây, luật Nghiệp Báo đã “thò tay” sắp xếp từng gène cho đứa bé.

Khi tinh trùng đã kết hợp với tiểu noãn, một tâm thức tối sơ xuất hiện. Lúc
này đồng thời với cái chết thực sự ở thân cũ. Trước khi tinh trùng kết hợp
với tiểu noãn, mỗi bên đã có 23 cặp nhiễm sắc thể chứa đựng các gène (các
đoạn phân tử ADN) ấn định sự phát triển về sau. Các nhiễm sắc thể đã có tạo
thành một vùng không gian tâm linh vô cùng nhỏ nơi giao tử (trứng hoặc tinh
trùng), nhưng chưa đủ để gọi là tâm thức tối sơ. Tính chất tinh thần của
tinh trùng hay tiểu noãn quá ít ỏi và đơn giản nên không đủ để định nghĩa đó
là một mọi người. Chỉ khi nào tiểu noãn và tinh trùng đã kết hợp, năng lực
tâm linh tại đó được nhân bội lên vì đã hình thành các gène (các đoạn phân
tử ADN) để ấn định sự phát triển của bộ não, lúc đó tâm thức tối
sơ của một mọi ng�

Tâm thức này càng lúc càng phát triển phức tạp dần dần theo sự phát triển
của các tế bào não. Ban đầu, phôi (trứng đã thụ tinh) dường như chỉ có một
tâm thức tối sơ cao cấp hơn bản năng sinh tồn của tế bào bình thường một
chút. Đến khi các tế bào não phát triển theo hai cơ cấu: thần kinh động vật
và thực vật; theo hai bán cầu; theo các trung khu, lúc đó tâm thức cũng phát
triển theo hai cơ cấu: ý thức và vô thức.

Qua hai tháng, não bộ đã phát triển hoàn chỉnh với 15 tỷ tế bào. Ý thức và
vô thức đã được thành lập xong. Tuy nhiên, não bộ vẫn trong tình trạng hoạt
động thầm lặng đơn giản, bào thai ngủ nhiều hơn thức. Thỉnh thoảng bào thai
cũng thức dậy vui đùa chút ít rồi lại chìm vào giấc ngủ say sưa. Song, nơi
cái não bộ trinh trắng đó, thật ra đã mang đủ các mầm mống thiện ác phức tạp
do ý nghiệp đời trước tạo nên. Những tư tưởng đời trước đã quy định nhân
cách, tính tình cho đời sau.

Một số người cho rằng nếu tư tưởng đời trước tạo ra tư tưởng đời sau, vậy
phải chăng có một loại tâm thức nào đó không bị tiêu diệt theo cái chết, đã
giữ nguyên các hạt giống tư tưởng đời trước để nhập qua bào thai mới ? Và
như vậy người thông minh sẽ tiếp tục thông minh, kẻ ngu dốt sẽ tiếp tục ngu
dốt ?
Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Có thể một người đời trước là một
bác học. Nhưng ông luôn đố kỵ với kẻ có tài vì sợ họ giỏi hơn mình. Kiếp
sau, ông là một người ngu dốt. Có thể một người nông dân ít học, nhưng ông
biết lo lắng việc học hành của con cái, thường hay phụ giúp xây cất trường
học trong làng. Kiếp sau ông là một người thông minh học giỏi.

Không có tâm thức nào rời thân cũ nhập qua thai mới để mang theo các hạt
giống tư tưởng cũ. Chỉ có luật Nghiệp Báo từ trong Bản Thể quy định tất cả.
Nếu đời này chúng ta có được tư tưởng tốt lành, nhân cách trác việt, chỉ bởi
vì đời trước chúng ta thường xuyên tán thán một bậc thánh nào đó, hoặc hơn
nữa chúng ta thường tâm nguyện sẽ đạt được sự cao cả của vị thánh đó.

Luật Nghiệp Báo sắp xếp tất cả mà không bị ngăn cách bởi không gian vì trong
Bản Thể, tất cả vị trí đều chung một chỗ, nhưng không lẫn lộn với nhau.

Trong thế giới sinh vật, người ta quan sát thấy những hiện tượng biến dị
không theo truyền thống. Ví dụ trong một bầy chim lông vàng chợt xuất hiện
con chim lông xám, mặc dù chúng cùng sự di truyền từ cha mẹ. Những biến dị
này có nhiều nguyên nhân, hoặc do môi trường, nhiệt độ, hóa chất, tâm lý.

Trong loài người cũng vậy, không phải hể là anh chị em thì phải giống nhau.
Sự biến dị lạ lùng đã khiến cho anh chị em vẫn có sự sai khác về tính tình,
hình dáng, tài năng. Ở đây, chính nghiệp riêng đời trước đã đạo diễn nên sự
sai khác này. Họ có duyên làm anh chị em với nhau những vẫn cưu mang nghiệp
riêng biệt của mình từ vô lượng kiếp trước.

Rồi thêm nữa, gène không phải đã là đại biểu cho luật Nghiệp Báo. Nó cũng
chỉ là một mắc xích trong chuỗi Nhân Quả mà thôi. Ví dụ một người bị dư một
nhiễm sắc thể, 47 thay vì 46 như mọi người, nên mắc hội chứng Down. Người
này ngu đần, yếu ớt, mặt mày bị biến dạng. Do nghiệp đời trước nên trong quá
trình tạo thành trứng hoặc tinh trùng của cha mẹ, một giao tử đã dư một
nhiễm sắc thể để dành sẵn cho kẻ xấu số kia. Đúng vào lúc trứng đó rụng, nó
được thụ tinh và đứa bé ra đời với định mệnh khắc nghiệt. Vì là bệnh từ
trong nhiễm sắc thể nên rất khó chữa. Biết đâu sau này do phước của người
bệnh đến lúc tốt đẹp, y học sẽ tìm được phương pháp bỏ bớt một nhiễm sắc thể
tai hại kia.
Các nhà khoa học đang lần mò vào từng gène để thay đổi số phận của con
người. Những người bệnh do gène tức là do nghiệp cố định khó chuyển, biết
đâu đến khi đủ phước, y học sẽ can thiệp vào gène để chuyển nghiệp cho họ.
Chỉ có một cái cố định, đó là luật Nghiệp Báo. Một nghiệp chắc chắn sẽ có
một quả báo. Phần còn lại là do mỗi chúng ta tự chọn cho mình loại quả báo
nào bằng cách gây nghiệp ra sao. Nếu muốn cuộc đời mình được nhiều tốt đẹp,
hãy cố gắng tạo nhiều nhân lành và gạn lọc tư tưởng của mình thường xuyên.
Có một số tôn giáo không tin có luân hồi tái sinh, có một số người nghiên
cứu khoa học cũng không tin có luân hồi. Nhưng cũng có một số nhà khoa học
đang khách quan tìm hiểu vấn đề này một cách nghiêm túc.

Bác sĩ Mỹ Ian Stevenson, tác giả cuốn “Hai mươi trường hợp về luân hồi”, sau
nhiều năm nghiên cứu ông đã tin rằng “Có thể có sự sống sau khi chết đi”.
Ông bắt đầu tìm cách chứng minh Thuyết luân hồi từ năm 1961 trong chuyến đi
Ấn Độ lần thứ nhất. Dùng máy vi tính phân tích 1200 trường hợp được coi là
đầu thai, Bác sĩ Stevenson tuyên bố: “Không có lý do để coi thuyết luân hồi
là mê tín, ngược lại nó đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.” Ông cho
một số trường hợp những nốt ruồi, mụn cóc trên mình trẻ sơ sinh có thể là
dấu vết dao đâm, đạn bắn trong tiền kiếp.

Ở Hy Lạp, các triết gia Empedocles, Pythagore và Plato đã giảng giải về đầu
thai. Ngay các giáo phẩm cao cấp của nhà thờ Kitô buổi đầu cũng tin ở việc
đầu thai. Mãi đến năm 553, hội đồng Constantinople dưới sự chủ tọa của giáo
hoàng Vigilins mới phán rằng luân hồi là tà thuyết. Nhiều triết gia cận đại
bênh vực thuyết luân hồi, trong đó có Kant (1724-1804) và Schopenhower
(1788-1860).
Rồi ngay cả những người tin ở thuyết luân hồi cũng có nhiều ý kiến khác
nhau. Có người cho rằng ngoài việc tái sinh ở thân người hoặc thú, một người
theo nghiệp của mình có thể tái sinh ở một thế giới siêu hình của các thần
linh, hoặc tái sinh ở địa ngục, ma quỷ. Như vậy họ tin rằng ngoài không gian
vật lý này còn có các thế giới siêu hình cũng có tính khách quan như không
gian vật lý. Ở đó các sinh vật không mang thân xác vật lý mà có một hình
dáng đặc biệt, khó thể trông thấy bởi đôi mắt của người trần gian.

Hầu hết các tôn giáo đều chấp nhận có các cõi giới siêu hình tồn tại khách
quan ngoài ý muốn con người. Chúng ta cần phân biệt cái không gian tâm linh
do Bản năng sinh tồn của sinh vật tạo nên có tính chủ quan triệt để, với các
thế giới siêu hình tồn tại khách quan theo quan niệm của tôn giáo.

Nơi không gian tâm linh chủ quan, mọi thần thông, tác dụng đều xảy ra theo ý
muốn và niềm tin của con người. Thậm chí một số ảo ảnh về thiên đường, địa
ngục, ảo ảnh về các bóng ma cũng được tạo ra từ nơi đây. Hơn nữa, mặc dù
không gian tâm linh có vẻ kỳ diệu hơn, cao cấp hơn không gian vật lý nhưng
nó vẫn liên quan với không gian vật lý bởi vì nó được hình thành từ cấu trúc
của tế bào sinh vật, từ cấu trúc của các ADN. Như vậy do cấu trúc cao cấp
của vật chất, tế bào hình thành, ADN hình thành và bản năng sinh tồn hình
thành, đồng thời không gian tâm linh cũng từ nơi cấu trúc đó mà xuất hiện. Ở
mỗi tế bào sống đều có một vùng không gian tâm linh nhỏ bé bao phủ. Toàn bộ
tế bào của cơ thể tạo thành một vùng không gian tâm linh lớn bao quanh cơ
thể. Riêng n
hững sinh vật có nã

Chúng ta có thể ví dụ không gian tâm linh với điện trường chung quanh một
dây dẫn điện. Khi có dòng điện chạy qua một dây dẫn, lập tức chung quanh dây
điện xuất hiện một vùng điện từ trường. Trường điện từ này vô hình nhưng có
tác dụng lớn lao trong các kỹ thuật hiện đại như Radar, vô tuyến viễn
thông… Người ta ứng dụng tính chất của trường điện từ trong vô số lĩnh vực
nhưng thật ra bản chất thực sự của cái gọi là trường này nghĩa là gì thì vẫn
còn là bí mật.

Một số nhà bác học đã dùng lại khái niệm Éther để tạo cơ sở cho một cái nền
của không gian. Khái niệm này từ lâu đã bị bác bỏ, nhưng lại bắt đầu được
nhắc đến.

Trường điện từ cũng do vật chất mà có. Trường không gian tâm linh của sinh
vật cũng vậy, cũng từ vật chất mà có, nhưng phải là một cấu trúc hết sức đặc
biệt của ADN mới đủ sức tạo thành một trường không gian tâm linh phát ra
chung quanh.

Như vậy, không gian tâm linh vẫn phải dựa trên vật chất mà có. Tinh thần và
thể xác không thể tách rời. Tinh thần và thể xác có tính chất khác nhau rất
xa nhưng vẫn dựa vào nhau để tồn tại. Người nào tách đôi tinh thần và thể
xác sẽ phạm sai lầm. Chính vì lý do này nên khi có người hỏi Đức Phật :

“Ngã (tinh thần) và Thân (thể xác) là một hay khác?”

Đức Phật im lặng.

Theo tính toán, các nhà vật lý vũ trụ cho rằng phải cần số lượng vật chất
gấp nhiều lần số lượng vật chất đang có trong vũ trụ thì mới phù hợp với vận
tốc chuyển động của các thiên thể. Và các nhà khoa học kết luận rằng phải
tồn tại một loại “vật chất vô hình”rất lớn trong vũ trụ. Ở đây chúng ta thấy
bắt đầu có sự nối tiếp trùng hợp giữa lý thuyết khoa học và lý thuyết về các
cõi giới siêu hình của tôn giáo như cõi trời,cõi địa ngục. Một ngày nào đó,
khoa học mở rộng phạm trù về môi trường sống sang các thế giới vô hình và
chúng ta sẽ xem thế giới vô hình cũng là một dạng tồn tại để đi đến sau cái
chết của cuộc đời này.
Tuy nhiên chúng ta nên cẩn thận vì một cõi trời thật sự và một cõi trời do
ảo ảnh của tâm hiện ra rất khó phân biệt. Nhiều người đã trở nên mê tín, tà
kiến vì quá chú trọng vào cõi siêu hình và thường hay có ảo ảnh thiên đường
trong giấc mơ.

About Hải Hồ

Lượm lặt những bài viết trên internet, nhờ Wordpress giữ giúp rồi 1 ngày đẹp trời nào đó đem ra xài.....
This entry was posted in Uncategorized. Bookmark the permalink.

Leave a comment